Chủ Nhật, 25 tháng 1, 2015

Phật Thuyết Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương

Phật Thuyết Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương

Quán Thế Âm Tứ Thủ


Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Sa-môn Thiên Tức Tai đời Tống

Việt dịch: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận
Hiệu đính: Nhóm Phiên Dịch Ba Tạng Kinh Điển Phật Giáo

 ♦ Quyển 1
TÔI NGHE NHƯ VẦY:

Một thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, trong Rừng cây Chiến Thắng gần thành Phong Đức, cùng với 1.250 vị đại Tỳ-kheo và chư đại Bồ-tát.

Tên các ngài là:

- Kim Cang Thủ Đại Bồ-tát,
- Trí Kiến Đại Bồ-tát,
- Kim Cang Quân Đại Bồ-tát,
- Bí Mật Tạng Đại Bồ-tát,
- Hư Không Tạng Đại Bồ-tát,
- Nhật Tạng Đại Bồ-tát,
- Vô Động Đại Bồ-tát,
- Bảo Thủ Đại Bồ-tát,
- Phổ Hiền Đại Bồ-tát,
- Chứng Chân Thường Đại Bồ-tát,
- Trừ Cái Chướng Đại Bồ-tát,
- Đại Cần Dũng Đại Bồ-tát,
- Dược Vương Đại Bồ-tát,
- Quán Tự Tại Đại Bồ-tát,
- Chấp Kim Cang Đại Bồ-tát,
- Hải Tuệ Đại Bồ-tát,
- Trì Pháp Đại Bồ-tát,
- và các vị khác như thế; 80 ức Bồ-tát đều đến hội họp.

Khi ấy còn có các vị thiên tử từ 32 cõi trời cũng đều đến hội họp. Đại Tự Tại Thiên và Đại Lực Thiên làm thượng thủ. Cùng với Đế Thích Thiên Vương, chủ lãnh của Thế giới Kham Nhẫn là Đại Phạm Thiên Vương, Nhật thiên Tử, Nguyệt Thiên Tử, phong thiên tử, thủy thiên tử, và các vị thiên chúng khác như thế cũng đều đến hội họp.

Lại có trăm ngàn long vương, tên các vị ấy là:

- Upalāla Long Vương,
- Cực Xú Khí Long Vương,
- Timiṃgira Long Vương,
- Chủ Địa Long Vương,
- Bách Đầu Long Vương,
- Hullura Long Vương,
- Đa Thiệt Long Vương,
- Ngưu Đầu Long Vương,
- Lộc Đầu Long Vương,
- Hỷ Lạc Long Vương,
- Hiền Hỷ Long Vương,
- Ngư Tử Long Vương,
- Vô Nhiệt Não Long Vương,
- Hải Long Vương,
- và các vị long vương khác như thế cũng đều đến hội họp.

Lại có trăm ngàn tầm hương thần vương, tên các vị ấy là:

- Cổ Âm Tầm Hương Thần Vương,
- Diệu Thanh Tầm Hương Thần Vương,
- Thiên Tý Tầm Hương Thần Vương,
- Thiên Chủ Tầm Hương Thần Vương,
- Thân Hoan Hỷ Tầm Hương Thần Vương,
- Chủng Chủng Nhạc Âm Tầm Hương Thần Vương,
- Trang Nghiêm Tầm Hương Thần Vương,
- Hiện Đồng Tử Thân Tầm Hương Thần Vương,
- Diệu Tý Tầm Hương Thần Vương,
- Pháp Lạc Tầm Hương Thần Vương,
- và các vị tầm hương thần vương khác như thế cũng đều đến hội họp.

Lại có trăm ngàn nghi thần vương, tên các vị ấy là:

- Diệu Khẩu Nghi Thần Vương,
- Bảo Quan Nghi Thần Vương,
- Hi Di Nghi Thần Vương,
- Hoan Hỷ Nghi Thần Vương,
- Luân Trang Nghiêm Nghi Thần Vương,
- Châu Bảo Nghi Thần Vương,
- Đại Phúc Nghi Thần Vương,
- Kiên Cố Tinh Tấn Nghi Thần Vương,
- Diệu Dũng Nghi Thần Vương,
- Bách Khẩu Nghi Thần Vương,
- Đại Thụ Nghi Thần Vương,
- và các vị nghi thần vương khác như thế cũng đều đến hội họp.

Lại có trăm ngàn thiên nữ, tên các vị ấy là:

- Thiên nữ Tối Thượng,
- Thiên nữ Diệu Nghiêm,
- Thiên nữ Kim Đái,
- Thiên nữ Trang Nghiêm,
- Thiên nữ Văn Trì,
- Thiên nữ Cam Lộ Nguyệt,
- Thiên nữ Thanh Tịnh Thân,
- Thiên nữ Bảo Quang,
- Thiên nữ Hoa Thân,
- Thiên nữ Thiên Diện,
- Thiên nữ Khẩu Diễn Ngũ Nhạc Âm,
- Thiên nữ Hỷ Lạc,
- Thiên nữ Kim Man,
- Thiên nữ Thanh Liên Hoa,
- Thiên nữ Tuyên Pháp Âm,
- Thiên nữ Diệu Lạc,
- Thiên nữ Nhạo Sanh,
- Thiên nữ Diệu Nghiêm Tướng,
- Thiên nữ Nghiêm Trì,
- Thiên nữ Bố Thí,
- Thiên nữ Khiết Dĩ,
- và các vị thiên nữ khác như thế cũng đều đến hội họp.

Lại có trăm ngàn long vương nữ, tên các vị ấy là:

- Long nữ Diệu Nghiêm Trì,
- Long nữ Acilillanā,
- Long nữ Tam Kế,
- Long nữ Hòa Dung,
- Long nữ Thắng Cát Tường,
- Long nữ Điện Nhãn,
- Long nữ Điện Quang,
- Long nữ Diệu Sơn,
- Long nữ Bách Quyến Thuộc,
- Long nữ Đại Dược,
- Long nữ Nguyệt Quang,
- Long nữ Nhất Thủ,
- Long nữ Bách Tý,
- Long nữ Thọ Trì,
- Long nữ Vô Phiền Não,
- Long nữ Thiện Trang Nghiêm,
- Long nữ Bạch Vân,
- Long nữ Thừa Xa,
- Long nữ Vị Lai,
- Long nữ Đa Quyến Thuộc,
- Long nữ Hải Phúc,
- Long nữ Cái Diện,
- Long nữ Pháp Tòa,
- Long nữ Diệu Thủ,
- Long nữ Hải Thâm,
- Long nữ Diệu Cao Cát Tường,
- và các vị long nữ khác như thế cũng đều đến hội họp.

Lại có trăm ngàn tầm hương thần nữ, tên các vị ấy là:

- Tầm hương thần nữ Ái Diện,
- Tầm hương thần nữ Ái Thí,
- Tầm hương thần nữ Vô Kiến,
- Tầm hương thần nữ Diệu Cát Tường,
- Tầm hương thần nữ Kim Cang Man,
- Tầm hương thần nữ Diệu Man,
- Tầm hương thần nữ Thụ Lâm,
- Tầm hương thần nữ Bách Hoa,
- Tầm hương thần nữ Hoa Phu,
- Tầm hương thần nữ Bảo Man,
- Tầm hương thần nữ Diệu Phúc,
- Tầm hương thần nữ Cát Tường Vương,
- Tầm hương thần nữ Cổ Âm,
- Tầm hương thần nữ Diệu Trang Nghiêm,
- Tầm hương thần nữ Phong Lễ,
- Tầm hương thần nữ Pháp Ái,
- Tầm hương thần nữ Pháp Thí,
- Tầm hương thần nữ Thanh Liên Hoa,
- Tầm hương thần nữ Bách Thủ,
- Tầm hương thần nữ Liên Hoa Cát Tường,
- Tầm hương thần nữ Đại Liên Hoa,
- Tầm hương thần nữ Thể Thanh Tịnh,
- Tầm hương thần nữ Tự Tại Hành,
- Tầm hương thần nữ Thí Địa,
- Tầm hương thần nữ Thí Quả,
- Tầm hương thần nữ Sư Tử Bộ,
- Tầm hương thần nữ Bạch Thụy Liên Hoa,
- Tầm hương thần nữ Diệu Ý,
- Tầm hương thần nữ Huệ Thí,
- Tầm hương thần nữ Thiên Ngữ Ngôn,
- Tầm hương thần nữ Ái Nhẫn Nhục,
- Tầm hương thần nữ Nhạo Chân Tịch,
- Tầm hương thần nữ Bảo Nha,
- Tầm hương thần nữ Đế Thích Nhạo,
- Tầm hương thần nữ Thế Chủ Quyến Thuộc,
- Tầm hương thần nữ Lộc Vương,
- Tầm hương thần nữ Biến Hóa Cát Tường,
- Tầm hương thần nữ Diễm Phong,
- Tầm hương thần nữ Tham Giải Thoát,
- Tầm hương thần nữ Sân Giải Thoát,
- Tầm hương thần nữ Si Giải Thoát,
- Tầm hương thần nữ Thiện Tri Thức Quyến Thuộc,
- Tầm hương thần nữ Bảo Tòa,
- Tầm hương thần nữ Vãng Lai,
- Tầm hương thần nữ Hỏa Quang,
- Tầm hương thần nữ Nguyệt Quang,
- Tầm hương thần nữ Biến Chiếu Nhãn,
- Tầm hương thần nữ Kim Diệu,
- Tầm hương thần nữ Nhạo Thiện Tri Thức,
- và các vị tầm hương thần nữ khác như thế cũng đều đến hội họp.

Lại có trăm ngàn nghi thần nữ, tên các vị ấy là:

- Nghi thần nữ Nhất Ý,
- Nghi thần nữ Thâm Ý,
- Nghi thần nữ Phong Hành,
- Nghi thần nữ Thủy Hành,
- Nghi thần nữ Thừa Không,
- Nghi thần nữ Tấn Tật,
- Nghi thần nữ Tài Thí,
- Nghi thần nữ Diệu Nha,
- Nghi thần nữ Vô Động Cát Tường,
- Nghi thần nữ Nhiễm Giới,
- Nghi thần nữ Sí Thịnh Quang Biến,
- Nghi thần nữ Diệu Cát Tường,
- Nghi thần nữ Bảo Khiếp,
- Nghi thần nữ Quán Tài,
- Nghi thần nữ Đoan Nghiêm,
- Nghi thần nữ Kim Cang Diện,
- Nghi thần nữ Kim Sắc,
- Nghi thần nữ Thù Diệu Trang Nghiêm,
- Nghi thần nữ Quảng Ngạch,
- Nghi thần nữ Vi Nhiễu Thiện Tri Thức,
- Nghi thần nữ Chủ Thế,
- Nghi thần nữ Hư Không Hộ,
- Nghi thần nữ Trang Nghiêm Vương,
- Nghi thần nữ Châu Kế,
- Nghi thần nữ Tổng Trì Châu,
- Nghi thần nữ Minh Nhân Vi Nhiễu,
- Nghi thần nữ Bách Danh,
- Nghi thần nữ Thí Thọ,
- Nghi thần nữ Hộ Trì Phật Pháp,
- Nghi thần nữ Pháp Giới Hộ,
- Nghi thần nữ Thượng Trang Nghiêm,
- Nghi thần nữ Nhất Niệm Thượng,
- Nghi thần nữ Cầu Pháp Thường Trì,
- Nghi thần nữ Thời Thường Kiến,
- Nghi thần nữ Vô Úy,
- Nghi thần nữ Thú Giải Thoát,
- Nghi thần nữ Thường Bí Mật,
- Nghi thần nữ Sử Tổng Trì,
- Nghi thần nữ Kiếm Quang Diễm,
- Nghi thần nữ Địa Hành,
- Nghi thần nữ Hộ Thiên Chủ,
- Nghi thần nữ Diệu Thiên Chủ,
- Nghi thần nữ Bảo Vương,
- Nghi thần nữ Nhẫn Nhục Bộ,
- Nghi thần nữ Hành Thí,
- Nghi thần nữ Đa Trú Xứ,
- Nghi thần nữ Trì Chiến Khí,
- Nghi thần nữ Diệu Nghiêm,
- Nghi thần nữ Diệu Ý,
- và các vị nghi thần nữ khác như thế cũng đều đến hội họp.

Lại có trăm ngàn Thanh Tín Nam và Thanh Tín Nữ cũng đều đến hội họp.

Lại có vô số chúng tại gia cùng hàng xuất gia, trăm ngàn quái dị ngoại đạo lõa hình và các ngoại đạo khác cũng đều đến hội họp.




Lúc bấy giờ có luồng ánh sáng lớn từ Đại địa ngục Vô Gián phóng ra. Ánh sáng đó chiếu khắp Tinh xá Kỳ Viên và khắp khu vườn đều trở nên thanh tịnh.

Trong vườn hiện ra những cột trụ vi diệu viên mãn với như ý châu cõi trời dùng làm trang nghiêm.

Lại hiện ra những lầu các lớn với vàng báu dùng làm trang nghiêm.

Trong những lầu các đó lại hiện ra các phòng ốc:
- Hiện ra phòng do hoàng kim tạo thành với bạc trắng làm cửa.
- Hiện ra phòng do bạc trắng tạo thành với hoàng kim làm cửa.
- Hiện ra phòng do vàng bạc hỗn hợp tạo thành với vàng bạc hỗn hợp làm cửa.
- Hiện ra cung điện báu trang nghiêm do vàng bạc hỗn hợp tạo thành với vàng bạc hỗn hợp làm cột trụ cùng diệu bảo dùng để trang nghiêm.
- Hiện ra cung điện do hoàng kim tạo thành với bạc trắng làm cột trụ.
- Hiện ra cung điện do bạc trắng tạo thành với hoàng kim làm cột trụ.
- Hoặc hiện ra cung điện do bạc trắng tạo thành với các diệu bảo cõi trời dùng để trang nghiêm cột trụ.

Lại nữa, trên những cây cối tại Tinh xá Kỳ Viên hiện ra muôn loại châu báu cõi trời dùng để trang nghiêm.

Lại hiện ra những cây như ý do hoàng kim tạo thành với bạc trắng làm lá và trang nghiêm với muôn loại châu báu. Những cây đó có hàng trăm loại y phục tơ lụa thượng diệu treo ở trên cây.

Lại có trăm ngàn lưới giăng trân châu anh lạc báu quấn trùm ở trên cây.

Lại có trăm ngàn mũ báu thượng diệu, hoa tai, dây lụa đeo, và các tạp báu lung linh dùng để trang nghiêm.

Lại có những loại hoa thượng diệu khác nhau cùng giường nệm vi diệu thù thắng và những hợp báu vi diệu dùng để trang trí.

Có muôn loại cây như ý được trang nghiêm như thế và số cây xuất hiện ở trong vườn có đến trăm ngàn.

Lại nữa, các khung cửa sổ và trên bậc thềm của những lầu các ở Tinh xá Kỳ Viên được làm bằng kim cang diệu bảo. Trên những lầu các đó có vô số vải lụa thù thắng vi diệu và trân châu anh lạc như thế dùng để trang nghiêm.

Trong vườn lại có trăm ngàn ao báu thù thắng vi diệu với nước tám công đức tràn đầy trong ấy. Trong ao có những tạp hoa thù thắng, vi diệu, và viên mãn đầy khắp trong ao, như là: hoa sen xanh, hoa súng trắng, hoa sen trắng, hoa thích ý, hoa thích ý lớn, hoa linh thụy, và các thứ hoa khác như thế.

Lại có muôn loại cây hoa thù thắng vi diệu, như là: cây hoa ngọc lan, cây hoa trúc đào, cây hoa kèn, cây hoa diệu giải thoát, cây hoa hương vũ, cây hoa diệu ý, và có những cây hoa vui lòng đẹp ý như vậy.




Khi các tướng thanh tịnh hiếm có và vi diệu trang nghiêm như thế xuất hiện ở Tinh xá Kỳ Viên, lúc ấy trong Pháp hội có một vị đại Bồ-tát tên là Trừ Cái Chướng, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo lộ vai phải, chắp tay cung kính, chiêm ngưỡng Tôn nhan, rồi thưa với Phật rằng:

"Hiếm có thay, thưa Thế Tôn! Nay trong lòng con có điều nghi và muốn hỏi Như Lai. Kính mong Thế Tôn cho phép con hỏi.

Thưa Thế Tôn! Nay ở nơi đây có ánh sáng lớn, đó là do từ đâu chiếu đến? Do nhân duyên gì mà hiện ra các tướng lạ thường như thế?"

Lúc bấy giờ Thế Tôn bảo Trừ Cái Chướng Bồ-tát:

"Thiện nam tử! Các ông hãy lắng nghe. Ta sẽ phân biệt và giảng giải cho ông.

Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu khổ não khôn xiết nên đã vào trong Đại địa ngục Vô Gián. Sau khi cứu họ thoát khỏi khổ ách xong, ngài lại vào đại thành để cứu độ tất cả ngạ quỷ đang chịu khổ."

Khi đó Trừ Cái Chướng Đại Bồ-tát lại bạch Phật rằng:

"Bạch Thế Tôn! Ngục thành của Đại địa ngục Vô Gián được bao bọc bằng sắt và nền của ngục cũng làm bằng sắt. Xung quanh thành đó không có chỗ nào hở trống. Lửa dữ với khói luôn bốc cháy hừng hực. Trong địa ngục của đường ác như thế có một cái chảo nước sôi rất lớn. Nước ấy sôi sùng sục và có trăm ngàn ức nayuta hữu tình đều bị ném vào trong chảo nước sôi đó, ví như là đậu nấu trong nồi nước. Khi nước đang sôi lên, họ chìm nổi lên xuống không gián đoạn và bị nấu nát nhừ. Trong Địa ngục Vô Gián này có các hữu tình thọ khổ như vậy.

Thưa Thế Tôn! Thánh Quán Tự Tại Đại Bồ-tát đã dùng phương tiện gì để vào trong đó?"

Thế Tôn lại bảo Trừ Cái Chướng Đại Bồ-tát:

"Thiện nam tử! Đây ví như Chuyển Luân Thánh Vương bước vào khu vườn báu như ý ở cõi trời. Cũng như vậy, thiện nam tử! Khi Thánh Quán Tự Tại Đại Bồ-tát vào Đại địa ngục Vô Gián thì không gì có thể chướng ngại thân thể của Bồ-tát. Lúc đó, tất cả khí cụ trừng phạt ở Địa ngục Vô Gián đều chẳng thể nào bức hại thân của Bồ-tát. Lửa hẫy hừng của đại địa ngục đó rồi sẽ diệt trừ và hóa thành ao nước mát mẻ.

Khi ấy, các ngục tốt của Diêm Vương sanh lòng kinh ngạc về điều quái lạ chưa từng có này và nghĩ rằng:

'Tại sao trong này bỗng nhiên biến thành cảnh tượng phi thường như thế?'

Khi ấy, Quán Tự Tại Đại Bồ-tát vào trong ngục phá hủy những cái chảo nước sôi và diệt trừ lửa dữ. Hầm lửa lớn đó hóa thành ao báu và trong ao có hoa sen to lớn như bánh xe.

Khi các ngục tốt của Diêm Vương đã thấy việc như vậy, họ cầm những khí cụ trừng phạt đi đến chỗ của Diêm Vương Thiên Tử, nào là cung, kiếm, chùy, gậy, cung tên, bánh xe sắt, cây chỉa ba, và những khí cụ khác như thế.

Khi đến nơi, họ tâu rằng:

'Tâu đại vương! Ngài chắc chắn biết được tại sao nơi nghiệp báo của chúng tôi bỗng nhiên đều diệt hết!'

Khi ấy Diêm Vương Thiên Tử nói rằng:

'Nơi nghiệp báo của các người đều diệt hết như thế nào?'

Lại thưa với Diêm Vương Thiên Tử rằng:

'Đại địa ngục Vô Gián kia bỗng nhiên trở nên mát mẻ. Giữa lúc việc ấy xảy ra, có một người với sắc tướng đoan nghiêm, trên búi tóc cài châu báu cõi trời và có mũ báu dùng để trang nghiêm nơi thân. Người kia vào trong địa ngục và phá hủy chảo nước sôi. Hầm lửa hóa thành ao và trong ao có hoa sen to lớn như bánh xe.'

Lúc đó Diêm Vương Thiên Tử nhiếp tâm tư duy:

'Là vị thiên nhân nào mà có uy lực như thế? Là Đại Tự Tại Thiên, Đại Lực Thiên hay vị trời nào khác đến địa ngục kia và biến hiện ra việc không thể nghĩ bàn như vậy? Có phải là do uy thần của đại lực quỷ bạo ác với mười đầu biến hóa ra chăng?'

Lúc bấy giờ, Diêm Vương Thiên Tử dùng Thiên Nhãn Thông để quán xem trên cõi trời. Sau khi quán chư thiên xong, ngài lại quán Địa ngục Vô Gián và nhìn thấy Quán Tự Tại Đại Bồ-tát. Khi thấy như vậy, ngài liền vội đến chỗ của Quán Tự Tại Đại Bồ-tát.

Lúc đến nơi, ngài cúi đầu đảnh lễ với trán chạm sát chân của Bồ-tát, rồi với lòng chí thành và dùng kệ tán thán rằng:

'Quy mạng Đại sĩ Liên Hoa Vương
Đại từ đại bi Quán Tự Tại
Bậc đại tự tại diệu cát tường
Khéo ban hữu tình điều ước mong

Sức đại uy thần viên mãn túc
Diệt bạo trừ ác khéo hàng phục
Làm ngọn đèn sáng nơi u tối
Ai trông thấy ngài đều hết sợ

Trăm ngàn cánh tay thị hiện ra
Hóa hiện số mắt cũng như vậy
Đoan nghiêm đầy đủ mười một mặt
Trí tuệ ví như bốn biển lớn

Vui mến tín thọ Pháp vi diệu
Là để cứu hộ các hữu tình
Cá rùa thủy tộc cùng mọi loài
Trí tuệ tối thượng như núi cao

Ban thí châu báu cứu chúng sanh
Là bậc tối thượng đại cát tường
Đầy đủ phước trí trang nghiêm thân
Địa ngục Vô Gián vào trong đó
Sẽ liền biến thành nơi mát mẻ

Hết thảy chư thiên đều cúng dường
Đảnh lễ bậc thánh thí vô úy
Thường hay thuyết giảng Pháp Sáu Độ
Hằng giữ Pháp đăng luôn cháy sáng

Pháp nhãn sáng hơn ánh thái dương
Sắc tướng vi diệu thật đoan nghiêm
Thân tướng sắc vàng như kim sơn
Lòng từ sâu thẳm như biển Pháp

Tâm ý tương ứng đồng Chân Như
Trong miệng hiện ra diệu công đức
Tích tập vào sâu môn chánh định
Nhiều đến vô số trăm ngàn muôn
Lại có vô lượng sự an vui
Diện mạo đoan nghiêm tối thượng tiên

Sợ hãi kinh hoàng trong đường ác
Gông cùm xiềng xích sẽ thoát ra
Khéo ban chúng sanh Pháp vô úy
Quyến thuộc đại chúng luôn vây quanh
Những điều cầu mong đều toại ý
Như được diệu bảo như ý châu

Phá hủy diệt nát thành ngạ quỷ
Khai mở con đường tịch tĩnh yên
Cứu độ thế gian trừ ách bệnh
Như cây tràng phan bao phủ che

Hỷ Lạc Hiền Hỷ nhị long vương
Vua rồng cuộn quanh ở hai nách
Trên tay ngài cầm bất không sách
Hóa hiện vô số uy thần đức
Phá trừ ba cõi điều hãi kinh

Chúng quỷ tiệp tật, kim cang thủ
Chúng quỷ bạo ác, quỷ tinh linh
Loài khởi thi quỷ, không hành mẫu
Cùng với các loài quỷ úng hình
Loài quỷ khiến người bị điên cuồng
Tất cả thảy đều bị khiếp kinh

Như hoa sen xanh mắt trong sáng
Bậc thánh hay ban Pháp vô úy
Diệt trừ hết thảy các phiền não
Tất cả mọi việc đều giải thoát

Biến khắp thế giới vi trần số
Vào sâu trăm ngàn môn chánh định
Khai thị chúng mê những cảnh giới
Tất cả chúng sanh trong đường ác
Khiến họ thảy đều được giải thoát
Thành tựu viên mãn nơi Phật Đạo'

Khi đã dùng đủ mọi lời tán thán để cúng dường Quán Tự Tại Đại Bồ-tát xong, Diêm Vương Thiên Tử nhiễu quanh ba vòng rồi trở về chốn cũ.




Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ-tát lại bạch Phật rằng:

"Bạch Thế Tôn! Lúc Quán Tự Tại Đại Bồ-tát đã cứu những chúng sanh thoát khổ xong, ngài sẽ đến tham dự trong Pháp hội này không?"

Phật bảo Trừ Cái Chướng Bồ-tát:

"Thiện nam tử! Khi Quán Tự Tại Bồ-tát từ Đại địa ngục Vô Gián rời khỏi, ngài lại vào đại thành của loài ngạ quỷ. Trong thành đó có vô số trăm ngàn ngạ quỷ, miệng phun ra lửa, mặt mày cháy khét. Thân hình khô héo, đầu tóc rối ren, lông trên thân đều dựng đứng. Bụng của chúng lớn như núi, còn cổ thì nhỏ như cây kim.

Khi Quán Tự Tại Đại Bồ-tát đi đến đại thành của loài ngạ quỷ, lửa nghiệp cháy phừng phừng của thành đó đều bị diệt mất và biến thành mát mẻ. Lúc ấy có một con quỷ cầm một thanh sắt nóng bỏng đang gác cổng thành. Thân hình quỷ to lớn, diện mạo xấu xí, và hai mắt đỏ lòm.

Nó phát khởi lòng từ như vầy:

'Bây giờ ta không thể canh giữ chốn nghiệp ác như thế này nữa.'

Khi đó Quán Tự Tại Đại Bồ-tát khởi tâm đại bi, trong mỗi mười đầu ngón tay phun ra nước. Lại trong mỗi ngón chân cũng vọt ra nước và mỗi lỗ chân lông đều chảy ra dòng nước lớn. Lúc ấy, các loài ngạ quỷ này uống nước trong đó. Khi uống nước này xong, cổ họng mở lớn và thân tướng trở nên viên mãn. Chúng lại được nhiều loại ẩm thực ngon lạ và tất cả đều no đủ.

Khi những loài ngạ quỷ này được sự an vui lợi ích như thế, trong lòng của mỗi ngạ quỷ suy nghĩ tường tận như vầy:

'Tại sao người ở Nam châu Thắng Kim thường thọ hưởng những sự mát mẻ, an ổn, và điều vui sướng?

Là vì nơi đó:
- Hoặc có người khéo có thể thường cung kính và hiếu dưỡng cha mẹ.
- Hoặc có người khéo có thể bố thí ân huệ và vâng lời dạy của Thiện Tri Thức.
- Hoặc có người thông minh tài trí và luôn yêu thích Pháp Đại Thừa.
- Hoặc có người khéo có thể thực hành Tám Chánh Đạo.
- Hoặc có người khéo có thể đánh trống Pháp.
- Hoặc có người khéo có thể tu bổ tự viện bị hư hoại.
- Hoặc có người khéo có thể tu bổ chùa tháp Phật.
- Hoặc có người khéo có thể tu bổ tháp đền bị vỡ nát.
- Hoặc có người khéo có thể cúng dường và tôn trọng Pháp sư.
- Hoặc có người khéo có thể thấy nơi kinh hành của Như Lai.
- Hoặc có người khéo có thể thấy nơi kinh hành của Bồ-tát.
- Hoặc có người khéo có thể thấy nơi kinh hành của Độc Giác.
- Hoặc có người khéo có thể thấy nơi kinh hành của Ứng Chân.'

Khi chúng tư duy ở Nam châu Thắng Kim có những việc tu hành như vậy, lúc đó ở trong Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương tự nhiên phát ra âm thanh vi diệu. Khi các loài ngạ quỷ này nghe được âm thanh đó, tuy sở chấp của chúng nơi thân kiến to lớn như núi cùng với phiền não rối bời, nhưng thảy đều bị chày trí tuệ kim cang diệt trừ sạch. Chúng liền được vãng sanh về Thế giới Cực Lạc và đồng trở thành Bồ-tát với tên gọi là Tùy Ý Khẩu.

Khi Quán Tự Tại Đại Bồ-tát đã cứu những chúng sanh thoát khổ đó xong, ngài lại đến các thế giới phương khác để cứu độ chúng sanh khác."




Lúc ấy Trừ Cái Chướng Bồ-tát lại bạch Phật rằng:

"Bạch Thế Tôn! Quán Tự Tại Đại Bồ-tát có đến nơi này để cứu độ chúng sanh không?"

Đức Phật bảo:

"Thiện nam tử! Quán Tự Tại Bồ-tát này đây luôn cứu độ vô số trăm ngàn ức nayuta hữu tình mà chưa hề ngừng nghỉ. Ngài có đầy đủ sức đại uy thần và còn vượt hơn các Đức Như Lai."

Trừ Cái Chướng Bồ-tát bạch rằng:

"Bạch Thế Tôn! Vì sao Quán Tự Tại Đại Bồ-tát có sức uy thần to lớn như vậy?"

Đức Phật bảo:

"Thiện nam tử! Vào thuở quá khứ có Đức Phật xuất hiện ở thế gian, hiệu là Thắng Quán Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Vào thời ấy, ta là con trai của một ông trưởng giả. Tên ta thuở đó là Diệu Hương Khẩu. Từ nơi của Đức Phật kia, Như Lai đã nghe về uy thần công đức của Quán Tự Tại Bồ-tát."

Khi ấy Trừ Cái Chướng Bồ-tát bạch rằng:

"Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai đã nghe về uy thần công đức của Quán Tự Tại Đại Bồ-tát, việc đó thế nào?"

Đức Phật bảo:

"- Trong mắt của Quán Tự Tại Bồ-tát sanh ra mặt trời và mặt trăng.
- Trên trán sanh ra Đại Tự Tại Thiên.
- Bờ vai sanh ra Đại Phạm Thiên Vương.
- Nơi trái tim sanh ra Đại Lực Thiên.
- Ở răng sanh ra Đại Biện Tài Thiên.
- Trong miệng sanh ra phong thiên.
- Chỗ rốn sanh ra địa thiên.
- Nơi bụng sanh ra thủy thiên.

Khi Quán Tự Tại Bồ-tát đã sanh ra các vị trời như thế xong, lúc đó Quán Tự Tại Bồ-tát bảo Đại Tự Tại Thiên rằng:

'Vào thời Mạt Pháp, ở trong các cõi giới của chúng sanh đời vị lai, sẽ có những chúng sanh chấp trước tà kiến. Họ đều bảo ông là vị đại chủ tể từ vô thỉ đến nay và có năng lực sanh ra hết thảy mọi loài hữu tình. Những chúng sanh này vào thời kỳ đó đã đánh mất Phật Đạo và bị ngu si mê muội.

Họ sẽ nói lời như thế này:

"Hư không này là thân thể rộng lớn của ngài; địa cầu là chỗ ngồi của ngài. Các cõi giới cùng loài hữu tình đều sanh ra từ thân thể của ngài."'

Thiện nam tử! Ta đã nghe việc như thế từ nơi của Đức Thắng Quán Như Lai.




Về sau lại có Đức Phật xuất hiện ở thế gian, hiệu là Trì Kế Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Này Trừ Cái Chướng! Vào thuở đó, ta là Dũng Thí Đại Bồ-tát. Và từ ở Đức Phật kia, ta đã nghe về uy thần công đức của Quán Tự Tại Đại Bồ-tát."

Trừ Cái Chướng Bồ-tát bạch rằng:

"Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai đã nghe về uy thần công đức của Quán Tự Tại Đại Bồ-tát, việc đó thế nào?"

Đức Phật bảo:

"Lúc bấy giờ, tất cả trời, rồng, quỷ tiệp tật, phi thiên, kim sí điểu, đại mãng xà, người và phi nhân trong Pháp hội của Đức Trì Kế Như Lai đã đến hội họp. Khi Đức Thế Tôn kia ở giữa đại chúng sắp muốn thuyết Pháp, trong miệng của Ngài phóng ra muôn loại ánh sáng với nhiều màu sắc khác nhau.

Như là:
- màu xanh tỏa ánh sáng xanh,
- màu vàng tỏa ánh sáng vàng,
- màu đỏ tỏa ánh sáng đỏ,
- màu trắng tỏa ánh sáng trắng,
- màu hồng tỏa ánh sáng hồng,
- màu pha lê tỏa ánh sáng pha lê,
- màu vàng tỏa ánh sáng vàng.

Những ánh sáng đó chiếu khắp hết thảy các thế giới trong mười phương. Sau đó, những ánh sáng ấy trở về và nhiễu Đức Phật kia ba vòng, rồi vào miệng của Ngài.

Khi ấy, trong Pháp hội kia có một vị đại Bồ-tát tên là Bảo Thủ, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo lộ vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính và bạch Đức Thế Tôn kia rằng:

'Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà xuất hiện điềm lành này?'

Đức Phật kia bảo:

'Thiện nam tử! Ở Thế giới Cực Lạc có một vị đại Bồ-tát tên là Quán Tự Tại. Ngài vì muốn đến nơi này nên Như Lai mới hiện ra điềm lành ấy.'

Khi ngài Quán Tự Tại sắp đến, nơi đó xuất hiện vô số cây như ý, cây hoa, cây hoa súng trắng, và cây hoa ngọc lan. Lại hiện ra các loại hoa hỗn tạp, ao báu, và cây cối. Trên trời mưa xuống muôn loại diệu hoa. Lại mưa xuống các như ý châu, trân châu, lưu ly, vỏ sò hình xoắn, ngọc bích, san hô, và những châu báu khác. Lại có các y phục cõi trời tựa như mây rơi xuống.

Thuở đó vườn Cấp Cô Độc, trong Rừng cây Chiến Thắng, xuất hiện ra bảy báu, gồm có: kim luân báu, voi trắng báu, ngựa xanh báu, thần châu báu, ngọc nữ báu, chủ tàng báu, và chủ binh báu.

Khi bảy loại báu như thế xuất hiện, mặt đất đó thảy đều biến thành màu vàng.

Giữa lúc Quán Tự Tại Đại Bồ-tát đang rời khỏi Thế giới Cực Lạc, thì đại địa chấn động sáu cách.

Lúc bấy giờ, Bảo Thủ Đại Bồ-tát bạch Đức Thế Tôn kia rằng:

'Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà xuất hiện điềm lành này?'

Đức Phật kia bảo:

'Thiện nam tử! Đây là do Quán Tự Tại Đại Bồ-tát muốn đến nơi này nên Bồ-tát mới hiện ra điềm lành ấy.'

Khi đó, trời mưa hoa thích ý vi diệu và hoa sen vi diệu. Lúc ấy, trên tay của Quán Tự Tại Bồ-tát mang theo một đóa hoa sen sắc vàng sáng chói với 1.000 cánh đến chỗ của Đức Phật kia.

Ngài cúi đầu đảnh lễ với trán chạm sát chân của Phật, rồi cầm đóa hoa sen đó dâng lên Đức Thế Tôn kia và thưa rằng:

'Thưa Thế Tôn! Hoa này là do Đức Phật Vô Lượng Thọ sai con đem đến.'

Đức Thế Tôn kia tiếp thọ hoa sen ấy và đặt ở bên trái của Ngài.

Đức Phật đó bảo Quán Tự Tại Đại Bồ-tát:

'Nay ông hiện sức uy thần công đức trang nghiêm này là do nhân duyên gì?'

Quán Tự Tại Bồ-tát thưa rằng:

'Con vì muốn cứu độ hết thảy hữu tình ra khỏi đường ác, bao gồm tất cả loài ngạ quỷ, Địa ngục Vô Gián, Địa ngục Dây Đen, Địa ngục Chết Đi Sống Lại, Địa ngục Thiêu Đốt, Địa ngục Quay Nướng, Địa ngục Chảo Nước Sôi, Địa ngục Nước Lạnh Buốt. Trong các địa ngục lớn có những chúng sanh thọ khổ như vậy, con đều cứu vớt ra khỏi các đường ác và sẽ khiến họ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.'

Khi Quán Tự Tại Bồ-tát nói lời ấy xong, ngài đảnh lễ với trán chạm sát chân của Phật. Lễ xong, ngài hốt nhiên vụt mất như ngọn lửa tan biến giữa hư không.

Lúc bấy giờ Bảo Thủ Bồ-tát bạch rằng:

'Bạch Thế Tôn! Con nay có điều nghi muốn thưa hỏi Như Lai, ngưỡng mong Như Lai tuyên giảng cho con. Ngài Quán Tự Tại Bồ-tát có phước đức thế nào mà có thể hiện thần lực như vậy?'

Đức Phật kia bảo:

'Nếu có người dùng y phục vi diệu cõi trời cùng với áo cà sa, ẩm thực, giường nệm, thuốc thang, và các vật như thế để cúng dường cho Hằng Hà sa chư Phật Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, thì phước đức có được chỉ bằng một phần trên đầu sợi lông phước đức của Quán Tự Tại Bồ-tát; số lượng đó không hề sai khác.

Thiện nam tử! Lại ví như bốn châu lớn, ở đó ngày đêm có mưa lớn liên tục trong suốt mỗi năm 12 tháng, Ta có thể đếm từng giọt nước rơi nơi ấy, nhưng thiện nam tử, Ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được của Quán Tự Tại Bồ-tát.

Thiện nam tử! Lại ví như bốn biển lớn, độ sâu rộng là 84.000 yojana, Ta có thể đếm từng giọt nước của bốn biến lớn đó, nhưng thiện nam tử, Ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được của Quán Tự Tại Bồ-tát.

Thiện nam tử! Lại ví như trong bốn châu lớn có các loài hữu tình bốn chân--như là: sư tử, voi, ngựa, cọp, chó sói, gấu, nai, bò, dê, và hết thảy các loài bốn chân như thế--Ta đều có thể tính đếm số lông trên thân của mỗi con, nhưng thiện nam tử, Ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được của Quán Tự Tại Bồ-tát.

Thiện nam tử! Lại ví như có người dùng vàng báu cõi trời để tạo lập hình tượng của các Đức Như Lai nhiều như số vi trần. Khi xong, người đó làm muôn sự cúng dường trong một ngày. Ta đều có thể biết được số lượng phước đức có được của người ấy, nhưng thiện nam tử, Ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được của Quán Tự Tại Bồ-tát.

Thiện nam tử! Lại ví như cây cối trong tất cả rừng, Ta có thể tính đếm số lá của từng cây, nhưng phước đức có được của Quán Tự Tại Bồ-tát thì Ta chẳng thể nào nói hết số lượng.

Thiện nam tử! Lại ví như trong bốn châu lớn có người nam, người nữ, đồng nam, đồng nữ, và những người như thế đều chứng Quả Nhập Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn, Đạo Ứng Chân, Đạo Duyên Giác, hay Đạo vô thượng, thì phước đức có được của họ chỉ bằng một phần trên đầu sợi lông phước đức của Quán Tự Tại Bồ-tát; số lượng đó không hề sai khác.'

Lúc bấy giờ, Bảo Thủ Bồ-tát bạch Đức Thế Tôn kia rằng:

'Con từ xưa đến nay chưa từng bao giờ thấy và cũng chưa từng bao giờ nghe qua chư Phật Như Lai nào có phước đức như vậy. Thưa Thế Tôn! Ngài Quán Tự Tại chỉ ở quả vị Bồ-tát mà sao có được phước đức dường ấy?'

Đức Phật kia bảo:

'Thiện nam tử! Chẳng riêng chỉ có Ta ở thế giới này mà thậm chí đến vô số chư Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác ở phương khác, đều cùng hội họp một nơi thì cũng chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức của Quán Tự Tại Bồ-tát.

Thiện nam tử! Nếu có người ở thế giới này, như có thể nhớ niệm danh hiệu của Quán Tự Tại Đại Bồ-tát, thì người ấy sẽ xa lìa sanh già bệnh chết và nỗi thống khổ của luân hồi. Đây tựa như con ngỗng chúa bay thuận theo chiều gió. Người đó sẽ mau được vãng sanh về Thế giới Cực Lạc và diện kiến Đức Vô Lượng Thọ Như Lai để nghe diệu Pháp. Người như vậy sẽ vĩnh viễn chẳng còn thọ khổ luân hồi. Họ không có tham sân si, không có sanh già bệnh chết, và không có đói khát khốn khổ. Người đó chẳng còn phải chịu khổ do thọ sanh từ bào thai. Họ chỉ nương Pháp lực uy thần mà hóa sanh từ hoa sen. Người ấy thường ở quốc độ kia để hầu cận Quán Tự Tại Đại Bồ-tát cùng cứu độ tất cả hữu tình, khiến thảy đều được giải thoát, và thệ nguyện kiên cố của họ cũng sẽ viên mãn.'

Lúc ấy Bảo Thủ Bồ-tát bạch Đức Thế Tôn kia rằng:

'Khi nào thì Quán Tự Tại Bồ-tát sẽ cứu độ hết tất cả hữu tình, khiến thảy đều được giải thoát, và thệ nguyện kiên cố của ngài sẽ viên mãn?'

Đức Thế Tôn kia bảo:

'Chúng sanh thì nhiều vô số. Họ phải luôn chịu sanh tử luân hồi mà chưa hề ngừng nghỉ. Vì muốn cứu độ các chúng sanh như thế và khiến họ chứng Phật Đạo, nên Quán Tự Tại này đây tùy theo mỗi loài hữu tình mà hiện thân thuyết Pháp.

Nếu đáng dùng thân Phật để hóa độ, ngài liền hiện thân Phật mà thuyết Pháp cho họ.

Nếu đáng dùng thân Bồ-tát để hóa độ, ngài liền hiện thân Bồ-tát mà thuyết Pháp cho họ.

Nếu đáng dùng thân Duyên Giác để hóa độ, ngài liền hiện thân Duyên Giác mà thuyết Pháp cho họ.

Nếu đáng dùng thân Thanh Văn để hóa độ, ngài liền hiện thân Thanh Văn mà thuyết Pháp cho họ.

Nếu đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên để hóa độ, ngài liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà thuyết Pháp cho họ.

Nếu đáng dùng thân Đại Lực Thiên để hóa độ, ngài liền hiện thân Đại Lực Thiên mà thuyết Pháp cho họ.

Nếu đáng dùng thân Phạm Vương để hóa độ, ngài liền hiện thân Phạm Vương mà thuyết Pháp cho họ.

Nếu đáng dùng thân Đế Thích để hóa độ, ngài liền hiện thân Đế Thích mà thuyết Pháp cho họ.

Nếu đáng dùng thân Nhật Thiên Tử để hóa độ, ngài liền hiện thân Nhật Thiên Tử mà thuyết Pháp cho họ.

Nếu đáng dùng thân Nguyệt Thiên Tử để hóa độ, ngài liền hiện thân Nguyệt Thiên Tử mà thuyết Pháp cho họ.

Nếu đáng dùng thân hỏa thiên để hóa độ, ngài liền hiện thân hỏa thiên mà thuyết Pháp cho họ.

Nếu đáng dùng thân thủy thiên để hóa độ, ngài liền hiện thân thủy thiên mà thuyết Pháp cho họ.

Nếu đáng dùng thân phong thiên để hóa độ, ngài liền hiện thân phong thiên mà thuyết Pháp cho họ.

Nếu đáng dùng thân rồng để hóa độ, ngài liền hiện thân rồng mà thuyết Pháp cho họ.

Nếu đáng dùng thân chướng ngại thần để hóa độ, ngài liền hiện thân chướng ngại thần mà thuyết Pháp cho họ.

Nếu đáng dùng thân quỷ tiệp tật để hóa độ, ngài liền hiện thân quỷ tiệp tật mà thuyết Pháp cho họ.

Nếu đáng dùng thân Đa Văn Thiên Vương để hóa độ, ngài liền hiện thân Đa Văn Thiên Vương mà thuyết Pháp cho họ.

Nếu đáng dùng thân vua để hóa độ, ngài liền hiện thân vua mà thuyết Pháp cho họ.

Nếu đáng dùng thân tể quan để hóa độ, ngài liền hiện thân tể quan mà thuyết Pháp cho họ.

Nếu đáng dùng thân cha mẹ để hóa độ, ngài liền hiện thân cha mẹ mà thuyết Pháp cho họ.

Thiện nam tử! Quán Tự Tại Đại Bồ-tát tùy theo mỗi loài hữu tình mà ứng thân hóa độ. Hóa hiện thân hình như vậy để thuyết Pháp, cứu độ các chúng sanh, và khiến họ đều sẽ chứng Đạo tịch diệt của Như Lai.'

Lúc đó Bảo Thủ Bồ-tát bạch Đức Thế Tôn kia rằng:

'Con chưa từng bao giờ thấy hoặc nghe về những sự chẳng thể nghĩ bàn và hiếm có như vậy.

Thưa Thế Tôn! Quán Tự Tại Đại Bồ-tát có những việc chẳng thể nghĩ bàn như thế. Thật là chưa từng có.'

Đức Phật kia bảo:

'Thiện nam tử! Ở Nam châu Thắng Kim này có một hang động bằng kim cang, nơi ấy có vô số tỷ ức nayuta loài phi thiên đang trú trong đó.

Thiện nam tử! Quán Tự Tại Đại Bồ-tát đến nơi ấy, ngài hiện thân loài phi thiên và thuyết Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này cho chúng phi thiên đó. Khi chúng phi thiên nghe được Kinh này, tất cả đều phát khởi lòng từ, rồi chúng dùng bàn tay nâng đôi chân của Quán Tự Tại Đại Bồ-tát mà thành tâm nghe Chánh Pháp và chúng đều được an lạc.

Nếu ai nghe được Kinh vương này cùng có thể đọc tụng, như người ấy có năm tội vô gián, thì hết thảy đều tiêu trừ.

Khi gần mạng chung sẽ có 12 Đức Như Lai đến tiếp dẫn và bảo người đó rằng:

'Thiện nam tử! Chớ nên sợ hãi, bởi vì ông đã nghe được Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương.'

Sau đó, chư Như Lai kia sẽ hiển bày đủ mọi cách để vãng sanh về Thế giới Cực Lạc. Lúc ấy sẽ có những lọng che vi diệu, mũ trời, hoa tai, và các y phục thượng diệu. Khi hiện ra các tướng như thế, người đó nhất định sẽ vãng sanh về Thế giới Cực Lạc.

'Này Bảo Thủ! Quán Tự Tại Đại Bồ-tát là bậc tối thắng, không một ai sánh bằng. Ngài hiện thân loài phi thiên để khiến chúng phi thiên sẽ đắc Đạo tịch diệt.'

Khi đó, Bảo Thủ Bồ-tát cúi đầu sát đất và đảnh lễ với trán chạm sát chân của Đức Thế Tôn kia, lễ xong rồi cáo lui."

Phật Thuyết Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương ♦ Hết quyển 1

Phật Thuyết Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương ♦ Quyển 2


"Sau Đức Phật Trì Kế, có Đức Phật xuất hiện ở thế gian, hiệu là Biến Thắng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Này Trừ Cái Chướng! Vào thuở đó, ta là một vị tiên nhân tu hành nhẫn nhục và trú trong rừng sâu núi thẳm. Nơi ấy cao hẹp, sỏi đá lởm chởm, và không ai có thể đến hoặc ở lâu trong đó.

Lúc ở nơi Đức Như Lai kia, ta đã nghe về uy thần công đức của Quán Tự Tại Đại Bồ-tát.

Khi Quán Tự Tại vào trong đất vàng, ngài hóa hiện thân hình và vì loài hữu tình với gương mặt bị che khuất mà thuyết diệu Pháp, khai thị Tám Chánh Đạo và đều khiến họ đắc Đạo tịch diệt.

Sau khi rời khỏi đất vàng, ngài lại vào trong đất bạc. Chúng sanh nơi đây đều có bốn chân và đang sống trong đó.

Quán Tự Tại Đại Bồ-tát vì muốn cứu độ loài hữu tình kia nên ngài thuyết Pháp cho họ rằng:

'Tất cả nên lắng nghe Chánh Pháp như vầy, hãy phát khởi tâm tưởng và tư duy tường tận. Ta nay sẽ khai thị các tư lương để các ông đạt đến tịch diệt.'

Khi ấy, các hữu tình này đứng ở phía trước của Quán Tự Tại và thưa với Bồ-tát rằng:

'Đối với chúng sanh không có mắt mà vì họ mở sáng để khiến thấy Đạo.

Đối với người không có chỗ nương mà vì họ làm cha mẹ để khiến có chỗ tựa.

Những ai trong tối tăm mà vì họ làm ngọn đèn sáng và khai thị Chánh Đạo giải thoát.

Nếu có hữu tình nào niệm danh hiệu của Bồ-tát, họ sẽ được an lạc.

Chúng con phải luôn thọ lấy những khổ nạn như thế, xin hãy xót thương!'

Lúc ấy, khi tất cả chúng sanh này nghe Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương xong, chúng thảy đều được an vui và trụ không thoái chuyển.




Lúc bấy giờ, khi Quán Tự Tại Đại Bồ-tát rời khỏi nơi đó, ngài lại vào đất sắt. Trong ấy có một Đại Lực Phi Thiên Vương đang bị cấm chế. Đức Bồ-tát đến nơi này và hiện ra thân Phật. Khi đó, Đại Lực Phi Thiên Vương từ nơi xa đi ra nghênh tiếp Quán Tự Tại Đại Bồ-tát. Ở tại cung điện của phi thiên vương có vô số quyến thuộc, trong ấy đa số đều là gù lưng, lùn và xấu xí. Các quyến thuộc như thế đều đến thân cận cùng đảnh lễ với trán chạm sát chân của Quán Tự Tại Đại Bồ-tát.

Sau đó, phi thiên vương nói kệ rằng:

'Hiện đời con đắc Quả
Sở nguyện tất viên thành
Như đã từng ước mong
Đây là do chánh kiến
Nên mới thấy Bồ-tát
Con cùng hàng quyến thuộc
Thảy đều được an vui'

Nói xong, Đại Lực Phi Thiên Vương lấy tòa báu của mình mà phụng hiến cho Quán Tự Tại Bồ-tát, rồi cung kính chắp tay và thưa rằng:

'Từ xưa đến nay, con cùng hàng quyến thuộc say đắm tà dâm, lòng thường giận dữ, và còn thích giết hại chúng sanh. Do bởi tạo nghiệp tội như thế, nên lòng con lo sầu kinh hãi, sợ già chết cùng thọ các khổ não trong luân hồi. Chúng con không có chủ để nương và không có nơi để tựa. Xin hãy rủ lòng thương xót, từ bi cứu độ và chỉ bày lối thoát cho chúng con để rời khỏi nơi cấm chế này.'

Ngài Quán Tự Tại nói rằng:

'Thiện nam tử! Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác thường đi khất thực. Nếu ai có thể cúng dường thức ăn, thời phước đức có được sẽ chẳng thể nào nói cho hết.

Thiện nam tử! Không chỉ riêng ta ở trong hang động của phi thiên này chẳng thể nào nói hết, thậm chí cho đến 12 Hằng Hà sa số Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, đều cùng tụ hội lại một nơi thì cũng chẳng thể nói cho hết số lượng phước đức như vậy.

Thiện nam tử! Ta có thể đếm số lượng của hết thảy vi trần, nhưng thiện nam tử, ta chẳng thể nói hết số lượng phước đức có được do từ sự cúng dường thức ăn cho Như Lai.

Thiện nam tử! Lại ví như biển lớn, ta có thể đếm mỗi giọt nước trong đó, nhưng thiện nam tử, ta chẳng thể nói hết số lượng phước đức có được do từ sự cúng dường thức ăn cho Như Lai.

Thiện nam tử! Lại ví như bốn châu lớn, trong ấy có kẻ nam người nữ, bé trai bé gái, hết thảy họ đều chẳng trồng bất cứ loại cây gì, mà chỉ trồng đầy khắp bốn châu lớn đó toàn là hạt cải. Loài rồng làm mưa đúng mùa. Khi rau cải đến mùa thu hoạch, họ lấy một châu dùng làm sân để chứa những hạt cải và tích tụ thành một đống lớn. Thiện nam tử! Ta có thể đếm từng hạt như thế, nhưng thiện nam tử, ta chẳng thể nói hết số lượng phước đức có được do từ sự cúng dường thức ăn cho Như Lai.

Thiện nam tử! Lại ví như Vua núi Diệu Cao, phần núi ở dưới nước sâu 84.000 yojana, phần núi ở trên nước cao 84.000 yojana. Thiện nam tử! Hãy lấy vua núi như thế để làm giấy, dùng tất cả nước của biển lớn để làm mực. Sau đó, tất cả người nam, người nữ, bé trai, và bé gái trong bốn châu lớn đều lấy giấy mực để biên chép, cho đến khi viết hết tất cả và số lượng ấy tích tụ như núi Diệu Cao. Ta có thể đếm mỗi chữ họ viết, nhưng thiện nam tử, ta chẳng thể nói hết số lượng phước đức có được do từ sự cúng dường thức ăn cho Như Lai. Thiện nam tử! Giả sử tất cả những người biên chép như vậy đều đắc Địa Thứ Mười của Bồ-tát, thì phước đức cộng chung của hết thảy Bồ-tát như thế, chỉ bằng phước đức cúng dường thức ăn cho Như Lai một lần; số lượng đó không bao giờ sai khác.

Thiện nam tử! Lại ví như số lượng biển lớn nhiều như cát sông Hằng, ta có thể đếm từng hạt cát trong đó, nhưng thiện nam tử, ta chẳng thể nói hết số lượng phước đức có được do từ sự cúng dường thức ăn cho Như Lai.'




Khi nghe những lời ấy, Đại Lực Phi Thiên Vương rơi lệ than khóc, nước mắt đầm đìa, lòng buồn bã lo âu, và nghẹn ngào than thở, rồi thưa với Quán Tự Tại Đại Bồ-tát rằng:

'Con đã từng thực hành bố thí vào thuở xa xưa, nhưng sự bố thí ấy là cáu bẩn, hắc ám và phi pháp. Do bởi thực hành bố thí như vậy, cho nên nay con cùng hàng quyến thuộc phải bị cấm chế trong đường ác để thọ nghiệp báo. Chúng con chẳng biết rằng, dẫu chỉ cúng dường một chút thức ăn cho Như Lai thì sẽ biến thành cam lộ.

Từ xưa đến nay, con ngu si vô trí và tu tập pháp ngoại đạo của Phạm Chí. Thuở ấy có một người với thân hình lùn xấu đến chỗ con cầu xin. Lúc đó con chuẩn bị muôn loại mũ báu, hoa tai vàng bạc, y phục tuyệt đẹp, châu báu trang nghiêm, và các phẩm vật như thế.

Lại có trăm ngàn xe ngựa và xe voi báu. Chúng được trang nghiêm bằng trân châu anh lạc, lưới báu và treo những sợi dây tua vi diệu dùng để trang trí.

Lại có muôn loại lọng báu với lưới báu bao phủ, ở trên đó treo những chuông báu và chúng vang ra các âm thanh kêu leng keng.

Lại có 1.000 con bò màu vàng, lông có màu rất đẹp, móng chân trang nghiêm bằng bạc trắng, cặp sừng trang sức bằng hoàng kim, và còn có trân châu cùng các loại châu báu khác nhau dùng để trang trí nơi thân chúng.

Lại có 1.000 đồng nữ với thân hình mỹ miều, dung mạo đoan nghiêm, và hình dáng tựa như các thiên nữ. Đầu đội mũ trời và trên thân họ trang nghiêm với đôi hoa tai quý báu bằng vàng, các loại y phục xinh đẹp, dây thắt lưng báu, nhẫn đeo tay, vòng xuyến báu, xâu chuỗi anh lạc sáng chói lung linh, vòng hoa vi diệu, và các đồ trang sức như thế.

Lại có vô số trăm ngàn tòa báu khác nhau.

Lại có những loại tạp bảo bằng vàng bạc, các thứ ấy tích tụ nhiều vô số.

Lại có vài tỷ đàn bò cùng người canh giữ.

Lại có vô số thượng vị ẩm thực thơm ngon như cõi trời.

Lại có vô số chuông báu, vô số tòa sư tử bằng vàng bạc, vô số cây phất trần vi diệu với cây cán bằng vàng, và vô số lọng che được trang nghiêm bằng bảy báu.

Khi con đã chuẩn bị đủ các thứ như vậy để sắp làm đại bố thí, lúc ấy có trăm ngàn tiểu vương đều đến hội họp, trăm ngàn Phạm Chí cũng đến, và vô số tỷ hàng vua chúa cũng đến tham dự.

Khi con thấy họ đến, trong lòng khởi lên hoài nghi khác thường. Vào thời đó, chỉ một mình con là tối tôn, có đầy đủ thế lực lớn và thống lãnh đại địa. Bởi con y theo pháp của Phạm Chí để sám hối nghiệp ác đời trước, nên con muốn giết chết hàng vua chúa cùng vợ con quyến thuộc của họ, rồi moi tim mổ gan để cúng tế trời, và hy vọng làm như thế sẽ diệt đi tội của mình.

Lúc ấy con xiềng xích một tỷ tiểu vương thuộc dòng dõi quý tộc, rồi nhốt họ tại một hang bằng đồng cùng với vô số trăm ngàn kẻ hạ tiện sống nơi biên địa. Hết thảy họ đều bị giam ở trong hang động này. Con lại dùng dây xích sắt và chốt sắt để trói buộc tay chân của hàng vua chúa kia.

Thuở đó, trong hang động ấy con xây những lớp cổng.

- Dùng gỗ bình thường để làm lớp cổng thứ nhất.
- Dùng gỗ cây keo để làm lớp cổng thứ nhì.
- Lại dùng sắt để làm lớp cổng thứ ba.
- Lại dùng đồng tinh luyện để làm lớp cổng thứ tư.
- Lại dùng đồng chưa tinh luyện để làm lớp cổng thứ năm.
- Lại dùng bạc trắng để làm lớp cổng thứ sáu.
- Lại dùng hoàng kim để làm lớp cổng thứ bảy.

Ở trên bảy lớp cổng như thế, mỗi lớp cổng con dùng 500 ổ khóa siết chặt lại và còn để một hòn núi ở trước mỗi cổng.




Rồi một hôm nọ, Đại Lực Thiên bỗng nhiên hóa làm thân của một con ruồi và bay đến dò thám. Lại một hôm khác, ngài hóa làm thân của một con ong. Rồi một ngày nọ, ngài hóa làm thân của một con heo. Lại một ngày khác, ngài hóa làm thân tướng của loài phi nhân. Cứ mỗi ngày như vậy, ngài biến đổi thân tướng khác nhau để đến dò thám.

Lúc bấy giờ trong lòng con nghĩ là sẽ thi hành pháp của Phạm Chí. Khi Đại Lực Thiên thấy thế, ngài vào trong hang đồng mà phá hủy. Ngài dẹp đi bảy hòn núi ở trước các cổng và ném bỏ chúng ở chỗ khác.

Sau đó, ngài hô lớn đến những người đang bị nhốt trong kia rằng:

"Vô thắng thiên tử! Thân của các người đang chịu lắm khổ não, các người vẫn còn sống hay đã chết?"

Khi những người ấy nghe tiếng kêu hỏi, họ liền đáp rằng:

"Chúng tôi vẫn còn sống! Thưa Đại Lực Thiên Tôn, bậc đại lực tinh tấn, xin hãy cứu chúng tôi thoát khỏi khổ nạn!"

Sau đó vị trời ấy phá hủy bảy lớp cổng của hang đồng và những tiểu vương ở trong hang được thoát khỏi nạn xiềng xích.

Khi thấy Đại Lực Thiên, trong lòng của mỗi người họ suy nghĩ rằng:

"Đại Lực Phi Thiên Vương có phải đã chết rồi chăng? Hắn hiện vẫn còn sống hay đã chết ở nơi nào?"

Các hàng vua chúa lại nói rằng:

"Chúng ta thà chết mà cùng hắn quyết đấu, còn hơn phải bị chết do giam cầm ở chỗ này. Bây giờ chúng ta nên y theo vương pháp, chiến đấu đánh nhau với hắn. Giả như chúng ta bị chết trong địa phận của hắn, chúng ta sẽ được sanh lên trời."

Thế rồi mỗi tiểu vương từ nơi ở của mình mà chuẩn bị xe và yên ngựa. Tay họ cầm binh khí và sắp muốn khai đại chiến.

Lúc bấy giờ, Đại Lực Thiên biến làm một vị Phạm Chí với thân hình lùn xấu, da hươu quấn ở hai nách, trong tay cầm một cây chỉa ba, và đến cửa thành của con.

Khi đó, người gác cửa bảo người kia rằng:

"Không được vào cửa này, ngươi là kẻ lùn xấu. Đứng lại, cấm vào trong đó!"

Phạm Chí nói rằng:

"Tôi từ nơi xa đến đây."

Người gác cửa hỏi Phạm Chí:

"Ngươi từ đâu đến?"

Phạm Chí đáp rằng:

"Tôi là một đại tiên nhân. Tôi từ hoàng cung của quốc vương nước Nguyệt Thị đến đây."

Khi đó người gác cửa đến chỗ của con và tâu rằng:

"Tâu đại vương! Hiện có một Phạm Chí với thân hình lùn xấu đến nơi này."

Con nói rằng:

"Ngươi có biết người đó muốn gì không?"

Người gác cửa thưa rằng:

"Dạ, hạ thần không biết người đó muốn gì."

Con nói rằng:

"Ngươi đi kêu Phạm Chí đó vào đây."

Nhận được sắc lệnh, người gác cửa gọi Phạm Chí vào trong. Khi đã thấy, con liền dâng tòa báu để người đó ngồi.

Lúc trước con có một vị thầy, tên là Kim Tinh.

Khi Phạm Chí còn chưa vào trong, vị thầy này đã mách trước với con rằng:

"Phạm Chí này là một kẻ ác. Hắn đến đây cốt ý là để phá hoại kế hoạch của đại vương đó."

"Sao ngài có thể biết được?"

Kim Tinh đáp rằng:

"Thần tất nhiên biết. Đại vương có biết người đang hiện thân tới đây là ai không? Đó là Đại Lực Thiên."

Khi nghe xong lời tâu ấy, con liền suy nghĩ rằng:

"Ta luôn thực hành bố thì mà chưa hề thôi nghỉ. Tại sao hôm nay Phạm Chí kia muốn tới đây phá hoại ta."

Sau đó con nghĩ thế này:

"Ta nên dùng lời nói khôn khéo để dò hỏi Phạm Chí đó."

"Ngài đến chỗ của tôi, thật tình ngài muốn điều gì?"

Phạm Chí đáp rằng:

"Tôi đến chỗ của đại vương để xin hai bước đất."

Con nói với Phạm Chí rằng:

"Ngài cần một ít đất và nói là muốn xin hai bước đất. Được! Tôi sẽ cho ngài ba bước đất."

Sau đó con lấy bình vàng đựng nước sạch và nói rằng:

"Nếu ngài cần đất đai, vậy xin hãy nhận lấy!"

Phạm Chí tiếp thọ và chú nguyện rằng:

"Nguyện đại vương sẽ được an vui và sống lâu."

Khi đó, Phạm Chí với thân hình lùn xấu bỗng nhiên biến mất.

Lúc bấy giờ, Kim Tinh bẩm cáo với con rằng:

"Đại vương! Nay ngài sẽ thọ quả báo do từ nghiệp ác đó."

Khi ấy, Đại Lực Thiên bỗng hốt nhiên hiện thân, trên hai vai vác mặt trời và mặt trăng, còn tay thì cầm nào là gươm bén, bánh xe, gậy, cung tên, và các khí trượng như thế. Lúc con thấy xong, liền giật mình, sợ hãi kinh hoàng, run lẩy bẩy, rồi té lăn và xỉu trên đất.

Một hồi lâu sau con mới tỉnh dậy và than rằng:

"Ta phải làm sao đây! Chẳng lẽ phải uống thuốc độc để chết sao?"

Khi ấy, Đại Lực Thiên dùng bước chân đo đất đai, chỉ với hai bước mà không còn một tấc đất nào cả.

"Ta đã hứa là cho ba bước, nhưng bây giờ không đủ, ta phải làm sao đây?"

Đại Lực Thiên nói với con rằng:

"Nay ông phải nên theo sự chỉ giáo của tôi."

Lúc đó con thưa rằng:

"Tôi xin tuân theo sự chỉ giáo của ngài."

Đại Lực Thiên nói rằng:

"Ông có thật là sẽ tuân theo không?"

Con thưa rằng:

"Tôi xin thật lòng. Lời nói này là thành thật, lòng tôi không bao giờ hối tiếc."

Lúc bấy giờ, con y theo lời chỉ dạy và đều phá hủy tất cả những nơi tác pháp của Phạm Chí. Tất cả vàng bạc, trân bảo trang nghiêm, đồng nữ, y phục, chuông báu, lọng che, cây phất trần quý hiếm, tòa sư tử báu, bò màu vàng với châu báu trang nghiêm, cùng các vật báu trang nghiêm, con thảy đều đưa hết cho các tiểu vương và thả họ ra khỏi nơi tác pháp đó.'




"Đại Lực Phi Thiên Vương thưa với Quán Tự Tại Đại Bồ-tát rằng:

'Nay con tư duy và mới tỏ ngộ. Vì thuở xa xưa, con y theo pháp của Phạm Chí để làm sự bố thí rộng lớn. Nhưng do vì việc bố thí đó là cáu bẩn, đen tối, và bất tịnh. Vì thế, nay con cùng hàng quyến thuộc phải bị cấm giam ở tại hang sắt và chịu lắm khổ não.

Thưa Thánh Quán Tự Tại, con nay xin quy y. Xin ngài rủ lòng thương xót và cứu chúng con thoát khỏi chốn khổ nạn này.'

Đại Lực Phi Thiên Vương dùng kệ tán thán rằng:

'Quy mạng Đại bi Liên Hoa Thủ
Đại Liên Hoa Vương đại cát tường
Đủ mọi trang nghiêm diệu sắc thân
Búi tóc mũ trời trang nghiêm báu

Đảnh đội Vô Lượng Thọ Nhất Thiết Trí
Cứu độ chúng sanh vô số kể
Ai có bệnh khổ cầu an lạc
Bồ-tát hiện thân làm y vương

Đại địa mắt sáng hơn mặt trời
Tối thượng thanh tịnh vi diệu nhãn
Chiếu soi hữu tình được giải thoát
Khi đã giải thoát sẽ tương ứng

Ví như diệu bảo như ý châu
Khéo hộ chân thật diệu Pháp tạng
Thường luôn tuyên giảng Pháp Sáu Độ
Tuyên dương Pháp này đủ đại trí

Con nay thành khẩn xin quy y
Tán thán Đại bi Quán Tự Tại

Chúng sanh nhớ niệm Bồ-tát danh
Lìa khổ giải thoát được an ổn
Ai tạo nghiệp ác đọa địa ngục
Địa ngục Dây Đen và Vô Gián

Nếu ai thọ khổ trong đường ác
Xưng danh hiệu ngài sẽ giải thoát
Đường ác như thế các hữu tình
Thảy đều lìa khổ được an vui

Nếu ai thường niệm Đại Sĩ danh
Tất được vãng sanh cõi Cực Lạc
Diện kiến Như Lai Vô Lượng Thọ
Nghe Pháp vi diệu chứng vô sanh'

Lúc bấy giờ, Quán Tự Tại Đại Bồ-tát thọ ký cho Đại Lực Phi Thiên Vương rằng:

'Vào đời vị lai, ông sẽ thành Phật, hiệu là Cát Tường Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Vào lúc đó, ông sẽ chứng môn tổng trì của Lục Tự Đại Minh Vương. Tất cả chúng phi thiên hiện đang ở đây, ông vào đời vị lai đều sẽ cứu độ họ. Hết thảy hữu tình trong cõi Phật đó đều chẳng hề nghe có tiếng của tham sân si.'

Khi Đại Lực Phi Thiên Vương nghe thọ ký xong, liền cầm xâu chuỗi anh lạc với trị giá bằng trăm ngàn trân châu, lại dùng muôn loại diệu bảo trang nghiêm, một tỷ mũ trời và hoa tai để dâng lên và thưa rằng:

'Xin hãy rủ lòng thương xót mà nhận lấy cho.'




Lúc bấy giờ Quán Tự Tại Đại Bồ-tát bảo Đại Lực Phi Thiên Vương rằng:

'Ta nay sẽ thuyết Pháp cho ông. Ông hãy lắng nghe và khéo tư duy. Đời là vô thường huyễn hóa, mạng sống ngắn ngủi và gặp nhiều khổ nạn. Trong lòng các ông thường nghĩ tưởng tham muốn có đầy đủ phước đức lớn, lòng luôn yêu thích nô tỳ và nhân dân, cho đến lúa gạo, kho chứa thực phẩm cùng những bảo tàng lớn. Lòng thường yêu thích cha mẹ, vợ con cùng hàng quyến thuộc. Những việc như vậy, tuy luôn yêu thích nhưng thấy chúng như đang ở trong mộng. Khi đến lúc lâm chung, không một thứ gì có thể tương trợ cứu giúp và làm cho họ sống mãi ở Nam châu Thắng Kim.

Do bởi điên đảo nên sau khi mạng chung, họ thấy con sông Nại rộng lớn với tràn khắp máu mủ đang trôi chảy. Họ lại thấy những cây cối to lớn đang bốc cháy phừng phực. Khi thấy việc ấy rồi, lòng sanh kinh sợ. Lúc đó, các ngục tốt của Diêm Vương dùng dây trói cột và kéo họ đi qua các đại lộ đầy mũi nhọn mà chẳng chút thương tiếc. Nhấc chân lên hoặc bỏ chân xuống, họ đều bị đâm, bị cắt, bị xẻo. Lại còn có vô số chim quạ, kên kên, diều hâu và chó dại ăn thịt của họ. Họ ở trong đại địa ngục để chịu ách khổ tột cùng như thế.

Trên các đại lộ đầy mũi nhọn, lại có những cây gai lớn và dài đến 12 ngón tay. Trong mỗi bước đi có 500 cây gai đâm vào lòng bàn chân và làm cho họ khóc lóc thảm thiết.

Họ than rằng:

"Loài hữu tình chúng ta tạo nghiệp tội đều do bởi tham ái. Bây giờ phải chịu ách khổ tột cùng, giờ chúng ta có thể làm gì đây?"

Khi đó, các ngục tốt của Diêm Vương liền nói rằng:

"Từ xưa đến nay, các ngươi chưa từng lấy thức ăn để cúng dường Sa-môn, chưa từng nghe Pháp âm và cũng chưa từng nhiễu quanh tháp tượng."

Lúc ấy chúng tội nhân thưa với các ngục tốt của Diêm Vương rằng:

"Do bởi tội chướng, chúng tôi không tin hiểu và không tôn kính Phật Pháp Tăng, vì thế mà thường xa lánh."

Các ngục tốt nói rằng:

"Các ngươi tự mình tạo đủ mọi nghiệp ác, nay phải tự thọ lấy khổ báo."

Nói xong, các ngục tốt mang những người tội đến chỗ của Diêm Vương.

Khi đến nơi, họ đứng ở trước và lúc ấy Diêm Vương phán rằng:

"Đem bọn chúng đến nơi của nghiệp báo."

Khi đó, các ngục tốt của Diêm Vương lôi kéo người tội đến Đại địa ngục Dây Đen. Lúc đến nơi, những tội nhân này, từng người từng người một bị ném xuống đó. Khi ném vào trong địa ngục, thân thể của mỗi tội nhân bị 100 cây thương đâm vào thân xác, nhưng họ đều không chết. Tiếp đó, lại bị 200 cây thương lớn đâm vào thân, nhưng họ vẫn còn sống. Sau cùng, có 300 cây thương lớn đồng một lúc đâm vào thân xác của mỗi người tội, nhưng họ vẫn không chết.

Khi tánh mạng được phục hồi, lúc ấy họ lại bị ném vào trong hầm lửa lớn, nhưng họ vẫn không chết. Ngay lúc ấy, họ lại bị các ngục tốt bỏ những viên sắt nóng vào trong miệng và bắt nuốt, khiến cho môi, răng, thịt chân răng, hàm răng cùng cổ họng thảy đều cháy chín. Tim, ruột, và bụng bị cháy sèo sèo và làm cho toàn thân bị thiêu rụi.'

Lại bảo Đại Lực Phi Thiên Vương rằng:

'Khi thọ khổ như thế, sẽ không một ai có thể tương cứu. Ông nên biết, ta nay vì ông mà thuyết Pháp như vậy. Các ông phải tự cố gắng làm phước.'

Khi ấy, Quán Tự Tại Đại Bồ-tát bảo Đại Lực Phi Thiên Vương rằng:

'Ta nay muốn đến Tinh xá Kỳ Viên, hôm nay đại chúng đang hội họp nơi đó.'




Lúc bấy giờ Quán Tự Tại Bồ-tát phóng ra vô số ánh sáng với màu sắc khác nhau, như là ánh sáng màu xanh, ánh sáng màu hoàng kim, ánh sáng màu đỏ, ánh sáng màu trắng, ánh sáng màu pha lê, ánh sáng màu vàng, và những ánh sáng khác như thế. Những ánh sáng này chiếu đến ở trước Đức Biến Thắng Như Lai.

Khi đó có trời, rồng, quỷ tiệp tật, quỷ bạo ác, nghi thần, đại mãng xà, cùng người và phi nhân đều đến hội họp.

Lại có vô số chư đại Bồ-tát cũng đều đến hội họp.

Lúc ấy trong đại chúng kia có một vị Bồ-tát, tên là Hư Không Tạng.

Ngài từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa sang y phục, trịch áo lộ vai phải, gối phải quỳ sát đất, cung kính chắp tay, rồi hướng về Đức Phật kia mà bạch rằng:

'Bạch Thế Tôn! Những ánh sáng này là từ đâu chiếu đến?'

Đức Phật kia bảo:

'Thiện nam tử! Những ánh sáng này là từ Quán Tự Tại Bồ-tát ở trong cung điện của Đại Lực Phi Thiên Vương phóng ra và chiếu đến nơi đây.'

Lúc đó Hư Không Tạng Bồ-tát bạch Đức Thế Tôn kia rằng:

'Con nay phải dùng phương tiện gì mới có thể thấy Quán Tự Tại Bồ-tát kia?'

Đức Phật kia bảo:

'Thiện nam tử! Vị Bồ-tát kia cũng đang đến nơi này.'

Khi Quán Tự Tại Bồ-tát rời khỏi cung điện của Đại Lực Phi Thiên Vương, Tinh xá Kỳ Viên bỗng hốt nhiên có những cây hoa vi diệu cõi trời và cây như ý cõi trời. Chúng được trang nghiêm với vô số châu báu cõi trời, có màu sắc khác nhau và tươi đẹp lạ thường. Treo ở trên đó là hàng trăm loại trân châu anh lạc. Lại treo y phục tơ lụa cùng muôn loại y phục khác nữa. Thân cây và cành có màu đỏ rực, lá được làm bằng vàng và bạc. Lại có vô số cây tỏa mùi hương vi diệu, cây hoa thù thắng vi diệu, và vô số ao tắm báu với một tỷ tạp sắc diệu hoa đầy khắp trong đó.

Khi xuất hiện các việc như thế, Hư Không Tạng Bồ-tát thưa với Thế Tôn kia rằng:

'Thưa Thế Tôn! Tại sao đến giờ Quán Tự Tại Bồ-tát kia vẫn còn chưa đến?'




Đức Phật kia bảo:

'Thiện nam tử! Sau khi Quán Tự Tại Bồ-tát kia từ cung điện của Đại Lực Phi Thiên Vương rời khỏi, có một nơi khác mà không ai có thể đến, tên gọi là Hắc Ám.

Thiện nam tử! Ở nơi tối tăm kia, ánh sáng của mặt trời và mặt trăng không thể rọi đến, nhưng ở đó có như ý bảo, tên là Tùy Nguyện, và luôn phát ra ánh sáng để chiếu soi. Ở nơi kia có vô số tỷ quỷ tiệp tật đang trú trong đó. Khi chúng thấy Quán Tự Tại Bồ-tát vào trong ấy, tâm sanh hoan hỷ, vui mừng hớn hở và chạy đến nghênh tiếp Quán Tự Tại Bồ-tát.

Họ cúi đầu đảnh lễ với trán chạm sát chân của Bồ-tát và thưa hỏi rằng:

'Nay Đức Bồ-tát không mệt mỏi khi đến đây chứ? Ngài đã lâu rồi không ghé đến nơi tối tăm này.'

Quán Tự Tại Bồ-tát nói rằng:

'Đó là bởi ta cần cứu độ các hữu tình.'

Khi ấy, chúng quỷ tiệp tật cùng với chúng quỷ bạo ác kia lấy tòa sư tử vàng báu ở cõi trời để mời Đức Bồ-tát ngồi:

Lúc đó, Đức Bồ-tát vì chúng quỷ tiệp tật cùng với chúng quỷ bạo ác kia mà thuyết Pháp:

'Các ông hãy lắng nghe. Có một Kinh điển Đại Thừa tên là Trang Nghiêm Bảo Vương. Nếu ai nghe được dù chỉ bốn câu kệ mà có thể thọ trì đọc tụng cùng giảng giải nghĩa lý và tâm thường tư duy, thời phước đức đạt được sẽ không có hạn lượng.

Thiện nam tử! Ta có thể đếm số lượng của hết thảy vi trần, nhưng thiện nam tử, nếu ai có thể thọ trì bốn câu kệ trong Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này, thì ta chẳng thể nào đếm hết số lượng phước đức mà người ấy có được.

Ví như nước trong biển lớn, ta có thể đếm mỗi giọt nước trong đó; nhưng nếu ai có thể thọ trì bốn câu kệ trong Kinh này, thì ta chẳng thể nào đếm hết số lượng phước đức mà người ấy có được. Không chỉ riêng ta ở nơi tối tăm này chẳng thể nói hết, dù cho 12 Hằng Hà sa số Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, tất cả đều cùng hội họp một nơi và trải qua 12 kiếp, thì cũng chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức như vậy.

Thiện nam tử! Lại ví như tất cả người trong bốn châu lớn đều sửa sang nhà của họ đang sống thành một tinh xá. Ở trong đó, họ dùng vàng báu cõi trời để xây 1.000 ngôi tháp. Trong một ngày thì thảy đều hoàn tất, rồi họ dùng mọi thứ để cúng dường. Tuy nhiên, phước đức có được không bằng phước đức của người có thể thọ trì bốn câu kệ trong Kinh này.

Thiện nam tử! Ví như năm con sông lớn đổ vào biển cả, sự lưu chuyển của chúng chẳng có cùng tận. Cũng như vậy, nếu như ai có thể thọ trì bốn câu kệ trong Kinh Đại Thừa này, thì phước đức có được cũng như nước sông chảy vào biển và sẽ là vô tận.'

Khi đó, chúng quỷ tiệp tật cùng với chúng quỷ bạo ác kia thưa với Quán Tự Tại Bồ-tát rằng:

'Nếu có hữu tình nào mà có thể biên chép Kinh Đại Thừa này, thì số lượng phước đức có được là bao nhiêu?'

'Thiện nam tử! Phước đức có được là không có ranh giới. Nếu ai có thể biên chép Kinh này thì đồng như biên chép 84.000 Pháp tạng--không chút sai khác. Người này sẽ trở thành Chuyển Luân Thánh Vương, thống nhiếp bốn châu lớn, có diện mạo đoan nghiêm, và sẽ có 1.000 con trai vây quanh. Tất cả quân địch ngoại bang đều tự nhiên thần phục.

Nếu ai có thể thường nhớ nghĩ đến danh hiệu của Kinh này, thời người ấy sẽ mau được giải thoát khổ ách của luân hồi, xa lìa già chết cùng ưu sầu khổ não. Ở những nơi sanh ra vào đời sau, họ sẽ nhớ việc đời trước. Trên thân thường có mùi hương của ngưu đầu chiên đàn. Trong miệng thường tỏa ra mùi hương của hoa sen xanh. Họ có thân tướng viên mãn và đầy đủ uy thế lớn.'

Khi Pháp vừa thuyết xong, có các vị quỷ tiệp tật cùng với các vị quỷ bạo ác đắc Quả Nhập Lưu, và có vài trong số đó đắc Quả Nhất Lai.

Sau đó, họ nói lời như vầy:

'Cúi mong Bồ-tát hãy ở nơi này và chớ đi nơi khác. Nay chúng con sẽ ở nơi tối tăm này mà lấy vàng báu cõi trời để xây tháp và lại dùng vàng báu để tạo lập nơi kinh hành.'

Lúc ấy Quán Tự Tại Đại Bồ-tát nói rằng:

'Ta vì phải cứu độ vô số hữu tình và khiến họ đều sẽ đắc Phật Đạo nên mới muốn đi đến nơi khác.'

Khi đó, chúng quỷ tiệp tật cùng với chúng quỷ bạo ác kia, ai nấy đều cúi đầu, lấy tay kê lên má và bồi hồi suy nghĩ.

Rồi họ nói với nhau lời như thế này:

'Bây giờ Quán Tự Tại Đại Bồ-tát sẽ rời khỏi nơi này. Về sau ai sẽ là người có thể thuyết diệu Pháp cho chúng ta đây?'

Khi Quán Tự Tại Đại Bồ-tát rời khỏi, tất cả quỷ tiệp tật và quỷ bạo ác kia đều đi theo đưa tiễn.

Lúc đó, Quán Tự Tại Đại Bồ-tát bảo họ rằng:

'Các vị đã tiễn rất xa rồi, hãy nên trở về đi.'

Lúc ấy, chúng quỷ tiệp tật cùng với chúng quỷ bạo ác kia cúi đầu đảnh lễ sát đất với trán chạm vào chân của Quán Tự Tại Đại Bồ-tát, rồi họ trở về chốn cũ.




Lúc bấy giờ, Quán Tự Tại Đại Bồ-tát bay lên hư không như ngọn lửa và thẳng đến cung trời. Khi đã đến cung trời kia, ngài hiện thân làm Phạm Chí. Trong thiên chúng ở đó có một vị thiên tử, tên là Diệu Nghiêm Nhĩ và phải luôn chịu khổ do quả báo bần cùng. Khi đó, Phạm Chí do Quán Tự Tại Bồ-tát hóa thân, đi đến chỗ của vị thiên tử kia.

Lúc đến nơi, ngài nói rằng:

'Tôi đang bị đói lại còn bị khát nữa.'

Khi ấy, vị thiên tử kia nghẹn ngào than khóc mà nói với Phạm Chí rằng:

'Hiện tôi rất nghèo túng và chẳng có vật gì để dâng cho ngài cả.'

Phạm Chí nói rằng:

'Tôi đã bỏ công đến đây, cho dù là ít đến đâu thì ngài cũng nên biếu một chút gì.'

Lúc ấy, vị thiên tử kia vào trong cung và cố gắng tìm các đồ vật. Bỗng nhiên thấy có những cái rương báu lớn đựng đầy những kỳ trân dị bảo ở trong đó. Lại có những rương báu đựng đầy thức ăn nước uống ngon lạ. Lại có các thượng diệu y phục đầy khắp trong cung.

Khi ấy vị thiên tử kia suy nghĩ rằng:

'Hiện giờ vị Phạm Chí ở ngoài cửa nhất định là một người chẳng thể nghĩ bàn, nên mới khiến mình được những phước lợi phi thường này.'

Kế đó, vị thiên tử thỉnh mời đại Phạm Chí kia vào trong cung của mình và cầm châu báu vi diệu cõi trời cùng thượng vị ẩm thực cõi trời để dâng lên cúng dường.

Khi thọ nhận xong, Phạm Chí kia chú nguyện rằng:

'Cầu cho ngài sẽ được an vui và sống lâu.'

Khi ấy vị thiên tử kia thưa với Phạm Chí rằng:

'Hiền giả! Ngài từ đâu đến đây?'

Phạm Chí nói rằng:

'Ta từ trong Đại tinh xá Kỳ Viên mà đến đây.'

Vị thiên tử hỏi rằng:

'Nơi đó như thế nào?'

Phạm Chí bảo rằng:

'Trong Tinh xá Kỳ Viên, đất đai nơi đó thanh tịnh và xuất hiện những cây như ý được trang nghiêm bằng như ý châu từ cõi trời. Lại hiện ra đủ mọi như ý châu yêu thích. Lại hiện ra đủ mọi ao báu. Lại có vô số đại chúng với giới đức uy nghiêm và đầy đủ đại trí tuệ cũng xuất hiện trong ấy. Nơi đó có một Đức Phật, hiệu là Biến Thắng Như Lai. Các thánh chúng và chư thiên cũng trú nơi đó nên mới xuất hiện ra những sự biến hóa như vậy.'

Khi ấy vị thiên tử kia thưa rằng:

'Hiền giả! Xin hãy nói sự thật, đại Phạm Chí ngài là trời hay là người vậy? Hiền giả! Tại sao hôm nay lại xuất hiện những điều kỳ diệu như thế?'

Phạm Chí liền nói rằng:

'Ta chẳng phải trời mà cũng chẳng phải người. Ta là một vị Bồ-tát muốn cứu độ hết thảy hữu tình, khiến cho họ đều thấy Phật Đạo quảng đại.'

Khi vị thiên tử này nghe xong, liền cầm mũ trời báu vi diệu cùng hoa tai trang nghiêm để dâng lên cúng dường và nói kệ rằng:

'Con nay gặp được công đức địa
Xa lìa tội chướng cùng cấu dơ
Vừa mới gieo trồng nơi phước điền
Liền được quả báo thù thắng thay'




Lúc vị thiên tử này nói lên bài kệ ấy và sự hóa độ của Phạm Chí kia cũng đã hoàn mãn, thế nên Bồ-tát rời thiên cung và liền đi tới nước Sư Tử. Khi đến nơi, ngài đứng ở trước chúng quỷ nữ bạo ác với tướng mạo hóa hiện đoan nghiêm, sắc tướng thù đặc và vi diệu hiếm thấy. Khi chúng quỷ nữ bạo ác thấy dung mạo như thế thì liền khởi lòng ham muốn.

Với sự hân hoan cùng ái mộ, họ đến gần và nói rằng:

'Anh có thể làm phu quân của em không? Em là đồng nữ và vẫn chưa sánh duyên với ai, mong anh hãy làm phu quân của em. Bây giờ anh đã đến đây, xin chớ dời bước đi nơi khác. Em như người không có chủ, mong anh có thể làm người chủ của em. Em lại như căn phòng tối, mong anh hãy làm ngọn đèn sáng của em. Hiện chỗ của em có thức ăn nước uống, y phục, và rất nhiều kho chứa đồ. Lại có vườn trái cây xinh tươi và ao tắm mát mẻ.'

Bồ-tát bảo chúng quỷ nữ bạo ác rằng:

'Nay các cô hãy lắng nghe ta nói.'

Chúng quỷ nữ bạo ác nói rằng:

'Dạ vâng, chúng em rất thích nghe những gì anh bảo.'

'Hôm nay ta sẽ vì các cô mà thuyết Pháp Tám Chánh Đạo. Lại vì các cô mà thuyết Pháp Bốn Thánh Đế.'

Khi chúng quỷ nữ bạo ác nghe Pháp đó xong, họ liền chứng Quả. Có vị đắc Quả Nhập Lưu. Hoặc có vị đắc Quả Nhất Lai. Họ chẳng còn khổ bức của tham sân si, không khởi lòng ác và không còn có ý nghĩ giết hại. Tâm họ yêu mến Pháp và vui thích trong giới luật.

Sau đó, họ nói lời như vầy:

'Từ nay về sau, chúng con sẽ không bao giờ sát sanh. Chúng con sẽ sống như những người trì giới ở Nam châu Thắng Kim và dùng thức ăn nước uống thanh tịnh. Kể từ bây giờ, chúng con sẽ sống y như họ vậy.'




Khi chúng quỷ nữ bạo ác đã không còn tạo nghiệp ác và họ có thể tu học thọ trì, Quán Tự Tại Đại Bồ-tát rời khỏi nước Sư Tử, rồi đi đến Đại thành Lộc Dã. Ở thành kia có chỗ dơ bẩn và hôi thối, trong đó có vô số tỷ loại côn trùng và con giòi đang sống nơi ấy.

Quán Tự Tại Bồ-tát vì muốn cứu độ các hữu tình kia, nên ngài hóa hiện thành một con ong mà bay đến đó và trong miệng phát ra âm thanh như vầy:

'♪ Quy Y Phật!'

Các loài trùng kia nghe theo âm thanh đó và đều xưng niệm như tiếng ấy. Tuy sở chấp nơi thân kiến cùng các tùy phiền não của loài hữu tình kia như núi Diệu Cao, nhưng do bởi uy lực nên đều bị chày trí tuệ kim cang phá hủy hết sạch. Liền đó, chúng được vãng sanh về Thế giới Cực Lạc và đều trở thành Bồ-tát với đồng tên gọi là Diệu Hương Khẩu.




Khi đã cứu độ các hữu tình kia xong, Bồ-tát rời Đại thành Lộc Dã và đi đến nước Thiện Thắng. Lúc bấy giờ ở trong nước kia bị hạn hán suốt 12 năm ròng. Dân chúng cùng các loài hữu tình vì bị đói khát làm cho khổ não bức bách nên ăn thịt lẫn nhau.

Khi ấy trong tâm của Quán Tự Tại Bồ-tát tư duy rằng:

'Ta phải dùng phương tiện gì để cứu những chúng sanh này?'

Lúc ấy, Quán Tự Tại Bồ-tát giáng xuống những cơn mưa. Trước tiên, ngài mưa xuống nước để dẹp trừ cơn hạn hán. Tiếp đến, ngài mưa xuống các loại thùng đựng và mỗi cái đều chứa đầy ẩm thực ngon lạ trong đó. Khi ấy, dân chúng kia được các thức ăn nước uống như thế và thảy đều no đủ. Kế đó, Bồ-tát lại mưa xuống gạo, đậu, và những vật dụng khác để cho dân chúng kia đều tùy ý mãn túc.

Lúc bấy giờ, hết thảy dân chúng trong nước Thiện Thắng đều kinh ngạc và xem là việc chưa từng có. Lúc ấy, họ nhóm họp lại một nơi.

Khi đã tụ tập đông đủ, ai nấy đều nói rằng:

'Nay việc này là sao? Đây có phải là do uy lực của trời không?'

Khi ấy ở giữa đại chúng kia có một ông lão rất già, lưng còng, tay cầm gậy, và đã sống đến vô số trăm ngàn năm.

Lão ông bảo dân chúng rằng:

'Đây chẳng phải là uy lực của trời đâu. Nay hiện ra điềm lành đó, nhất định là uy đức thần lực của Quán Tự Tại Bồ-tát biến hiện ra.'

Dân chúng hỏi rằng:

'Làm thế nào mà Quán Tự Tại Bồ-tát kia có thể hiện ra các điềm lành đó?'

Lão ông liền nói rằng:

'Công đức thần lực của Thánh Quán Tự Tại kia:

- có thể làm ngọn đèn sáng cho những ai mù lòa,
- có thể che chở cho những ai đang rơi vào đám lửa cháy phừng,
- có thể hiện làm con sông cho những ai khát nước,
- có thể ban điều không sợ hãi cho những ai đang sống trong sợ hãi,
- có thể làm lương y cho những ai mắc bệnh khổ,
- có thể làm cha mẹ cho những ai đang thọ khổ,
- có thể khiến chúng sanh trong Địa ngục Vô Gián thấy Đạo tịch diệt,
- và có thể khiến hết thảy chúng sanh trong thế gian được công đức, lợi ích và an lạc.

Nếu lại có người niệm danh hiệu của Quán Tự Tại Bồ-tát, thì người này sẽ xa rời tất cả sự thống khổ của luân hồi.'

Khi dân chúng nghe xong thì thảy đồng tán dương:

'Lành thay!'

'Nếu ai có thể kiến lập một Pháp đàn hình vuông ở trước tượng của Quán Tự Tại Bồ-tát và thường xuyên đem hương hoa để cúng dường Quán Tự Tại Bồ-tát, thì người này trong tương lai sẽ được sanh làm Chuyển Luân Thánh Vương và có đầy đủ các đồ bảy báu, gồm có: kim luân báu, voi trắng báu, ngựa xanh báu, thần châu báu, ngọc nữ báu, chủ tàng báu, và chủ binh báu.

Nếu lại có người có thể cúng dường Quán Tự Tại Bồ-tát một đóa hoa, thì thân thể người này sẽ tỏa ra mùi hương vi diệu và mọi nơi sanh ra đều được thân tướng viên mãn.'

Khi ông lão này đã nói về công đức thần lực của Quán Tự Tại Bồ-tát xong, lúc đó dân chúng, ai nấy đều trở về nơi trú xứ của mình và lão ông cũng trở về chốn cũ.




Lúc bấy giờ Quán Tự Tại Bồ-tát bay lên hư không và suy nghĩ rằng:

'Ta đã lâu không gặp Đức Biến Thắng Như Lai. Bây giờ ta nên đi đến Tinh xá Kỳ Viên để gặp Ngài.'

Khi đó, Quán Tự Tại Bồ-tát liền đi đến tinh xá kia và thấy có vô số tỷ trời, rồng, quỷ tiệp tật, tầm hương thần, phi thiên, kim sí điểu, nghi thần, đại mãng xà, người và phi nhân. Lại có vô số tỷ chư Bồ-tát cũng đều đến hội họp.

Lúc bấy giờ Hư Không Tạng Bồ-tát bạch Đức Phật kia rằng:

'Bạch Thế Tôn! Vị Bồ-tát đang đến là ai?'

Đức Phật kia bảo:

'Thiện nam tử! Đó là Quán Tự Tại Đại Bồ-tát.'

Hư Không Tạng Bồ-tát nghe xong và giữ lặng yên.

Khi Quán Tự Tại Bồ-tát nhiễu quanh Đức Phật kia ba vòng, rồi ngồi ở bên trái.

Lúc ấy Đức Thế Tôn kia nói lời hỏi thăm rằng:

'Ông không mệt mỏi chứ! Thiện nam tử! Ông đến những nơi khác giáo hóa, việc ấy như thế nào?'

Quán Tự Tại liền thuật lại việc giáo hóa của mình.

'Con đã cứu độ các hữu tình như vầy như vầy!'

Khi Hư Không Tạng Bồ-tát nghe xong, trong lòng kinh ngạc chưa từng có:

'Nay ta đã thấy Quán Tự Tại, vị Bồ-tát có thể cứu độ chúng sanh ở những quốc độ như thế, khiến cho họ thấy các Đức Như Lai, và làm cho các chúng sanh ở những quốc độ như vậy đều trở thành Bồ-tát.'

Lúc ấy, Hư Không Tạng Bồ-tát đứng ở trước Quán Tự Tại và hỏi Quán Tự Tại Bồ-tát rằng:

'Nhân Giả đi hóa độ như thế, Nhân Giả có mệt không?'

Ngài Quán Tự Tại nói rằng:

'Tôi không mệt.'

Khi hỏi xong, Hư Không Tạng Bồ-tát giữ lặng yên.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn kia bảo các thiện nam tử rằng:

'Các ông hãy lắng nghe, Ta nay sẽ thuyết Pháp Sáu Độ cho các ông.

Này các thiện nam tử! Phàm ai muốn làm Bồ-tát thì trước tiên nên tu hành Bố Thí Độ, rồi sau đó tu hành Trì Giới Độ, Nhẫn Nhục Độ, Tinh Tấn Độ, Thiền Định Độ, và Trí Tuệ Độ. Nếu được như thế, họ sẽ thành tựu viên mãn và đầy đủ Sáu Độ.'

Khi thuyết Pháp xong, Đức Như Lai kia giữ lặng yên. Khi ấy, các đại chúng trong Pháp hội kia, mỗi vị đều cáo lui và trở về bổn xứ của mình. Chư Bồ-tát nơi đó cũng cáo lui và trở về cõi Phật của họ."

Phật Thuyết Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương ♦ Hết quyển 2


Phật Thuyết Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương ♦ Quyển 3


Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ-tát bạch Phật rằng:

"Con đã nghe Phật kể về sự tích của Quán Tự Tại Đại Bồ-tát, nay kính mong Thế Tôn vì con mà tuyên nói vị Bồ-tát kia có những môn chánh định gì?"

Đức Phật bảo:

"Thiện nam tử! Những môn chánh định đó là:

- Hữu Tướng Chánh Định,
- Vô Tướng Chánh Định,
- Kim Cang Sanh Chánh Định,
- Nhật Quang Minh Chánh Định,
- Quảng Bác Chánh Định,
- Trang Nghiêm Chánh Định,
- Tinh Kỳ Chánh Định,
- Tác Trang Nghiêm Chánh Định,
- Trang Nghiêm Vương Chánh Định,
- Chiếu Thập Phương Chánh Định,
- Diệu Nhãn Như Ý Chánh Định,
- Trì Pháp Chánh Định,
- Diệu Tối Thắng Chánh Định,
- Thí Ái Chánh Định,
- Kim Cang Phan Chánh Định,
- Quán Sát Nhất Thiết Thế Giới Chánh Định,
- Nhạo Thiện Thệ Chánh Định,
- Thần Thông Nghiệp Chánh Định,
- Phật Đảnh Luân Chánh Định,
- Diệu Nhãn Nguyệt Chánh Định,
- Liễu Đa Quyến Thuộc Chánh Định,
- Thiên Nhãn Chánh Định,
- Minh Chiếu Kiếp Chánh Định,
- Biến Hiện Kiến Chánh Định,
- Liên Hoa Thượng Chánh Định,
- Thượng Vương Chánh Định,
- Thanh Tịnh Vô Gián Chánh Định,
- Tín Tướng Chánh Định,
- Thiên Luân Chánh Định,
- Sái Cam Lộ Chánh Định,
- Luân Quang Minh Chánh Định,
- Hải Thâm Chánh Định,
- Đa Cung Chánh Định,
- Mỹ Diệu Thanh Chánh Định,
- Thanh Liên Hoa Hương Chánh Định,
- Vận Tải Chánh Định,
- Kim Cang Khải Chánh Định,
- Trừ Phiền Não Chánh Định,
- Sư Tử Bộ Chánh Định,
- Vô Thượng Chánh Định,
- Hàng Phục Chánh Định,
- Diệu Nguyệt Chánh Định,
- Quang Diệu Chánh Định,
- Bách Quang Minh Chánh Định,
- Quang Sí Thịnh Chánh Định,
- Quang Minh Nghiệp Chánh Định,
- Diệu Tướng Chánh Định,
- Khuyến Phi Thiên Chánh Định,
- Cung Điện Chánh Định,
- Hiện Viên Tịch Chánh Định,
- Đại Đăng Minh Chánh Định,
- Đăng Minh Vương Chánh Định,
- Cứu Luân Hồi Chánh Định,
- Văn Tự Dụng Chánh Định,
- Thiên Hiện Tiền Chánh Định,
- Tương Ứng Nghiệp Chánh Định,
- Kiến Chân Như Chánh Định,
- Điện Quang Chánh Định,
- Long Nghiêm Chánh Định,
- Sư Tử Tần Thân Chánh Định,
- Đại Giác Tú Diện Chánh Định,
- Vãng Phục Chánh Định,
- Giác Ngộ Biến Chánh Định,
- Niệm Căn Tăng Trưởng Chánh Định,
- Vô Tướng Giải Thoát Chánh Định,
- Tối Thắng Chánh Định,
- và Khai Đạo Chánh Định.

Thiện nam tử! Quán Tự Tại Đại Bồ-tát không chỉ có những chánh định đó, mà trong mỗi lỗ chân lông cũng có một tỷ chánh định.

Thiện nam tử! Quán Tự Tại Đại Bồ-tát là một vị Bồ-tát nhưng có công đức như thế. Cả đến chư Phật Như Lai cũng ngợi khen công đức như vậy là chưa từng có.




Thiện nam tử! Vào thuở xa xưa khi tu Đạo Bồ-tát, ta cùng với 500 thương nhân vì muốn đến trong nước Sư Tử để tìm tài bảo, nên đã mang theo xe cộ, lạc đà, trâu bò và những đồ vật khác. Thế là đoàn thương nhân khởi hành lên đường. Họ băng qua các thôn ấp, thành thị, và xóm làng. Tiếp đó, họ đến bờ biển và đáp thuyền ra khơi.

Khi đã lên thuyền, ta hỏi chủ thuyền rằng:

'Ông có thể xem hướng gió này là từ đâu đến và sẽ thổi đến nước nào không? Là sẽ đến lục địa châu báu, là đảo Java, hay là nước quỷ bạo ác?'

Vị chủ thuyền xem hướng gió và nói lời như thế này:

'Cứ y theo hướng gió bây giờ thì chắc chắn chúng ta sẽ đến nước Sư Tử.'

Và thế là, các thương nhân nương sức gió và lướt nhanh đến nước Sư Tử. Ở trong nước kia có 500 quỷ nữ bạo ác bỗng hốt nhiên tạo một trận cuồng phong. Cơn giông tố nổi lên những con sóng dữ dội và phá hủy đi thuyền của họ. Lúc đó, các thương nhân bị rơi vào trong biển nước, nổi lênh đênh và cuối cùng họ bơi được đến bờ. Khi 500 quỷ nữ bạo ác kia thấy các thương nhân, thân thể của mỗi quỷ nữ bạo ác dao động và phát ra âm thanh dữ tợn. Sau đó, chúng hóa thành thân tướng của những đồng nữ, rồi đi đến chỗ của các thương nhân và cho họ y phục. Các thương nhân mặc y phục này, rồi vắt quần áo ướt của mình và đem đi phơi khô. Các thương nhân rời nơi kia và liền đến dưới gốc cây ngọc lan nghỉ ngơi.

Khi đã nghỉ ngơi xong, họ đều nói với nhau rằng:

'Bây giờ chúng ta cũng chẳng biết tính sao, vậy phải làm gì bây giờ?'

Nói xong, họ đều im lặng.

Lúc bấy giờ, chúng quỷ nữ bạo ác kia lại đến ở trước các thương nhân và nói lời như thế này:

'Em vẫn chưa có chồng, anh có thể làm phu quân của em không? Chỗ của em có thức ăn nước uống, y phục, kho chứa đồ, khu vườn, và ao tắm.'

Sau đó, mỗi quỷ nữ bạo ác kia dẫn một người thương nhân về nơi cư trú của mình. Trong chúng quỷ nữ bạo ác này có một chúa quỷ nữ bạo ác, tên là Ratikarahasanam. Chúa quỷ nữ bạo ác kia dẫn ta về nơi cư trú của cô ta, rồi cô ấy lấy những ẩm thực ngon lạ để cung cấp cho ta. Ta ăn uống no nê và cảm thấy vui vẻ như ở nhân gian không khác.

Thời gian ở nơi đó vừa đúng 42 ngày, một hôm ta bỗng nhiên thấy chúa quỷ nữ bạo ác cười tũm tĩm. Lúc ấy ta cảm thấy kỳ lạ, bởi chưa hề khi nào ta thấy hoặc nghe sự quái dị như vậy.

Khi quỷ nữ bạo ác kia cười như thế, ta hỏi rằng:

'Vừa rồi sao nàng lại cười như thế?'

Quỷ nữ bạo ác đáp rằng:

'Nước Sư Tử này là nơi ở của chúng quỷ nữ bạo ác, em sợ anh sẽ bị nguy hiểm đến tánh mạng.'

Khi đó ta hỏi rằng:

'Sao nàng lại biết?'

Quỷ nữ bạo ác đáp rằng:

'Anh nhớ đừng đi về hướng nam!

Vì sao thế? Bởi nơi đó có một thành bằng sắt, trên dưới và xung quanh đều chẳng có cửa. Ở trong đó có vô số thương nhân, phần nhiều đã bị ăn thịt và chỉ còn sót lại hài cốt. Hiện giờ nơi đó vẫn còn thấy có kẻ sống người chết. Anh không tin thì cứ đi theo con đường này thì sẽ đến nơi đó và anh sẽ tin những gì em nói.'

Sau đó, ta đợi đến khi cô ấy ngủ say, tới lúc nửa đêm, ta cầm thanh kiếm nguyệt quang rồi đi về hướng nam. Khi đã đến thành sắt kia, ta đi xung quanh mà chẳng nhìn thấy một cánh cửa hay cửa sổ nào. May thay bên cạnh thành sắt kia có một cây ngọc lan, thế là ta trèo lên cây và lúc đó ta hô lớn vào.

Khi ấy các thương nhân trong thành sắt bảo ta rằng:

'Hiền đại thương chủ! Ngài có biết rằng chúng tôi bị chúng quỷ nữ bạo ác nhốt tại thành sắt này và mỗi ngày có 100 người bị chúng ăn thịt.'

Sau đó, họ kể tường tận mọi việc đã xảy ra. Khi nghe xong, ta tụt xuống cây ngọc lan, theo đường cũ và cấp tốc trở về nơi của quỷ nữ bạo ác kia.

Bấy giờ cô ấy hỏi ta rằng:

'Hiền đại thương chủ! Anh có thấy thành sắt như em đã nhắc qua hay không? Giờ anh hãy nói thật đi.'

Ta nói rằng:

'Anh đã thấy!'

Tiếp đó, ta lại hỏi cô ấy rằng:

'Anh phải làm cách nào mới ra khỏi nơi này được.'

Quỷ nữ bạo ác kia bảo ta rằng:

'Hiện có một cách chu đáo khiến anh có thể bình an rời khỏi nước Sư Tử để trở về Nam châu Thắng Kim.'

Nghe nói thế, ta lại hỏi cô ấy rằng:

'Làm sao anh mới rời khỏi nước Sư Tử được?'

Lúc đó chúa quỷ nữ bạo ác bảo ta rằng:

'Ở nước Sư Tử có một Thánh Mã Vương hay khéo có thể cứu độ tất cả hữu tình.'

Sau đó, ta tìm được cơ hội để đi đến chỗ của Thánh Mã Vương kia. Lúc ấy, ngài đang ăn dược thảo trắng.

Khi ăn xong, ngài lăn trên bãi cát vàng, rồi đứng dậy, rung rẩy lông trên thân và nói lời rằng:

'Có ai muốn đi qua bờ kia không?'

Ngài đã hỏi đến ba lần như vậy.

'Nếu ai muốn đi thì hãy tự lên tiếng.'

Khi đó ta nói với Thánh Mã Vương rằng:

'Nay tôi muốn đi qua bờ kia.'

Khi đã nói như thế, ta trở về lại chỗ của quỷ nữ bạo ác kia, rồi đi ngủ.

Khi quỷ nữ bạo ác kia thức giấc từ cơn ngủ say, lòng cảm thấy hối hận và hỏi ta rằng:

'Thương chủ, tại sao thân mình của anh lạnh quá vậy?'

Biết cô ấy không nỡ muốn ta đi, nên ta đã dùng phương tiện mà nói với quỷ nữ bạo ác rằng:

'Anh ra ngoài thành một lát để đại tiểu tiện, rồi trở về nên thân mình của anh mới lạnh như thế.'

Cô ấy nói với ta rằng:

'Hãy ngủ đi thôi!'

Ta ngủ đến khi mặt trời mọc và lúc đó ta mới đi gọi các thương nhân:

'Bây giờ các người hãy ra khỏi thành và đợi ở ngoài đó.'

Khi các thương nhân đều đã ra khỏi thành, họ tụ tập ở một nơi để nghỉ ngơi và nói với nhau rằng:

'Nay trong nhóm của chúng ta đây, hãy xem vợ của ai là thương người đó nhất. Mỗi người hãy kể ra những gì đã thấy và việc đó như thế nào.'

Lúc ấy có người trong đó nói rằng:

'Cô ta lấy cao lương mỹ vị để cung cấp cho tôi.'

Hoặc có người nói rằng:

'Cô ta mang đủ mọi quần áo để cung cấp cho tôi.'

Hoặc có người nói rằng:

'Cô ta lấy mũ trời, hoa tai và y phục để cung cấp cho tôi.'

Hoặc có người nói rằng:

'Tôi chẳng được gì cả, chỉ toàn là sự bất mãn.'

Hoặc có người nói rằng:

'Cô ta lấy các long hương, xạ hương và hương chiên đàn để cung cấp cho tôi.'

Khi các thương nhân nói lời đó xong, ta bảo họ rằng:

'Các người thật khó mà giải thoát, sao các người lại tham luyến chúng quỷ nữ bạo ác kia?'

Chúng thương nhân nghe xong, lòng sanh sợ hãi và hỏi rằng:

'Đại thương chủ, có thật là như vậy không?'

Ta liền bảo họ:

'Nước Sư Tử này là nơi ở của chúng quỷ nữ bạo ác. Họ chẳng phải là người mà đích thật là quỷ nữ bạo ác.'

Tiếp đó, ta nói lời thề rằng:

'Chỉ có Phật Pháp Tăng mới có thể biết họ là quỷ nữ bạo ác.'

Lúc ấy các thương nhân nghe xong và nói với ta rằng:

'Chúng tôi phải làm cách nào mới thoát khỏi nạn này.'

Ta nói với họ rằng:

'Ở nước Sư Tử có một Thánh Mã Vương hay khéo có thể cứu độ tất cả hữu tình. Ngài ăn dược thảo trắng và lăn trên bãi cát vàng.

Khi đứng dậy và rung rẩy lông trên thân xong, ngài sẽ nói ba lần rằng:

"Có ai muốn đi qua bờ kia không?"

Ta đã nói với Thánh Mã Vương kia rằng:

"Nay tôi muốn đi qua bờ kia."'

Khi đó các thương nhân lại nói với ta rằng:

'Vậy thì ngày nào chúng ta sẽ đi?'

Ta bảo họ rằng:

'Ba ngày sau chúng ta nhất định phải đi, các người phải nhớ chuẩn bị các tư lương để lên đường.'

Khi nói lời ấy xong, chúng thương nhân trở vào thành, rồi ai về nhà nấy của mỗi quỷ nữ bạo ác.

Khi quỷ nữ bạo ác thấy ta về, cô ấy liền hỏi rằng:

'Anh có mệt không?'

Ta hỏi quỷ nữ bạo ác kia rằng:

'Anh chưa bao giờ nhìn thấy khu vườn xinh đẹp và ao tắm của em cả, thật sự là có hay không?'

Lúc đó, quỷ nữ bạo ác kia bảo ta rằng:

'Đại thương chủ! Ở nước Sư Tử có rất nhiều khu viên lâm xinh đẹp và ao tắm.'

Ta nói với cô ấy rằng:

'Nàng hãy chuẩn bị các tư lương, ba ngày sau anh muốn đi du ngoạn. Anh muốn tham quan các khu viên lâm, ao đầm, ngắm hoa xinh tươi, và anh cũng sẽ hái các loại hoa đó để mang về nhà.'

Quỷ nữ bạo ác liền nói với ta rằng:

'Đại thương chủ, em sẽ chuẩn bị đầy đủ các tư lương cho anh.'

'Nếu quỷ nữ bạo ác kia biết được phương kế của ta thì chắc sẽ giết chết mình.'

Nghĩ như vậy, ta giữ lặng yên.

Rồi sau đó, quỷ nữ bạo ác kia lấy những thức ăn nước uống thơm ngon để mời ta dùng. Ăn xong, ta thở dài.

Cô ấy hỏi rằng:

'Đại thương chủ, tại sao anh lại thở dài như vậy?'

Lúc đó ta nói với cô ấy rằng:

'Anh vốn là người ở Nam châu Thắng Kim, anh nay thật nhớ quê nhà.'

Cô ấy nói với ta rằng:

'Đại thương chủ, đừng nhớ về quê hương của anh nữa. Ở nước Sư Tử này có muôn loại ẩm thực, y phục, kho chứa đồ, những khu vườn xinh đẹp và ao tắm. Anh sẽ thọ hưởng mọi điều vui sướng, anh hà tất phải nhớ về Nam châu Thắng Kim làm gì!'

Nghe xong, ta giữ lặng yên. Qua ngày hôm nay và đến ngày thứ hai, cô ấy chuẩn bị đầy đủ ẩm thực và các tư lương cho ta. Các thương nhân kia cũng thảy đều chuẩn bị đầy đủ các tư lương, rồi cùng đợi đến ngày thứ ba. Vào ngày thứ ba khi trời vừa hừng sáng, tất cả chúng thương nhân đều ra khỏi thành.

Khi đã ra khỏi thành, ai nấy đều cùng nhau bàn bạc:

'Bây giờ chúng ta nhất định phải mau rời khỏi và đừng nên ngoái nhìn lại nước Sư Tử.'

Sau khi nói lời ấy xong, ta cùng họ liền chạy nhanh đến chỗ của Thánh Mã Vương. Lúc đến nơi, mọi người trông thấy Mã Vương đang ăn dược thảo trắng. Khi ăn xong, ngài lăn trên bãi cát vàng, rồi đứng dậy, rung rẩy lông trên thân. Lúc bấy giờ, trên mặt đất của nước Sư Tử đều chấn động.

Khi đó, Mã Vương hỏi đến ba lần như sau:

'Bây giờ có ai muốn đi qua bờ kia không?'

Lúc ấy các thương nhân nói lời như thế này:

'Nay chúng tôi muốn đi qua bờ kia.'

Khi đó, Thánh Mã vương chuyển động thân mình và nói lời này:

'Các ông nhất định phải hướng về phía trước và chớ nên ngoảnh nhìn lại nước Sư Tử.'

Khi Thánh Mã Vương kia nói như thế xong, ta trèo lên lưng của Mã Vương trước, rồi sau đó 500 thương nhân cũng đều trèo lên lưng của ngài.

Lúc bấy giờ, chúng quỷ nữ bạo ác ở trong nước Sư Tử kia bỗng nhiên hay được các thương nhân đã ra đi, chúng liền phát ra những tiếng thương cảm thảm thiết và vội vã đuổi theo. Chúng khóc lóc buồn bã, vừa kêu vừa chạy. Khi các thương nhân nghe tiếng đó xong, họ quay đầu liếc nhìn thì bất chợt rơi xuống. Họ rơi vào trong nước và bị chúng quỷ nữ bạo ác này bắt lấy ăn thịt. Lúc đó chỉ có một mình ta là về được Nam châu Thắng Kim.

Khi Thánh Mã Vương đến tới bờ biển, ta leo xuống và nhiễu quanh Thánh Mã Vương ba vòng rồi rời khỏi nơi kia. Sau đó ta tìm đường về nơi xứ sở của mình và cuối cùng ta cũng về đến nhà. Khi cha mẹ ta nghe thấy ta trở về, họ ôm chặt vào lòng và vui mừng đến rơi nước mắt. Lúc trước, cha mẹ ta vì quá thương nhớ nên thường hay rơi lệ. Chính vì vậy mà làm cho mắt của họ đã bị mờ. Nay đã được hồi phục và sáng rõ như xưa. Bấy giờ, cha mẹ và con được đoàn viên. Sau đó, ta thuật lại tường tận những việc gian khổ đã xảy ra.

Sau khi nghe xong, cha mẹ ta bảo rằng:

'Hôm nay con được bình yên trở về, cha mẹ đã an tâm lắm rồi và không còn lo lắng nữa. Cha mẹ không cần đến những tài bảo đó đâu. Nay cha mẹ tuổi hạc đã cao và sức khỏe suy kém, cha mẹ cần con trông nôm ở những lúc ra vào. Lúc cha mẹ qua đời, con là chủ của một nhà và sẽ đưa tiễn cùng mai táng cho cha mẹ.'

Cha mẹ của ta thuở xưa đã nói những lời an ủi với ta như vậy đó.

Này Trừ Cái Chướng! Lúc ta là một vị thương chủ, ta đã trải qua những khổ nạn nguy hiểm như thế."

Phật bảo Trừ Cái Chướng Bồ-tát:

"Thánh Mã Vương thuở đó chính là Quán Tự Tại Đại Bồ-tát, là vị đã cứu ta thoát nạn hiểm nguy trong những lúc kinh hoàng của sanh tử.




Này Trừ Cái Chướng! Ta nay chẳng thể nào nói tường tận công đức số lượng của Quán Tự Tại Đại Bồ-tát. Ta nay sẽ vì ông mà lược nói về công đức của những lỗ chân lông nơi thân của Quán Tự Tại.

Này Trừ Cái Chướng! Trên thân của Quán Tự Tại Bồ-tát có một lỗ chân lông sắc vàng. Ở trong ấy có vô số tỷ ức nayuta tầm hương thần. Chúng ở trong đó và không phải trải qua nỗi khổ của luân hồi, mà chỉ thường thọ hưởng những điều vui sướng tối thắng. Các phẩm vật cõi trời để thọ dùng thì nhiều vô cùng vô tận. Chúng không có tâm tà ác, không có tánh đố kỵ, không có tham sân si. Chúng luôn tu hành Tám Chánh Đạo và thường thọ Pháp lạc.

Này Trừ Cái Chướng! Ở trong lỗ chân lông sắc vàng này lại có một như ý châu. Nó phóng ra ánh sáng và tùy ý mãn túc mọi điều sở nguyện của chúng tầm hương thần kia. Ở trong lỗ chân lông sắc vàng này xuất hiện ra những việc như thế.

Lại có một lỗ chân lông màu đen. Ở trong ấy có vô lượng tỷ ức nayuta vị tiên nhân có thần thông. Trong đó có vị đắc một loại thần thông. Hoặc có vị đắc hai, ba, bốn, hoặc năm loại thần thông. Cũng có vị được đầy đủ sáu loại thần thông. Ở trong lỗ chân lông này lại hiện ra đất bạc với núi làm bằng hoàng kim, chóp núi làm bằng bạc trắng và có 37 ái nhiễm hoa sen báu trang nghiêm ở trên núi đó. Ở trong dãy núi ấy có 84.000 chúng thần tiên. Bên cạnh của các vị tiên nhân này xuất hiện ra những cây như ý với thân cây có sắc màu hồng đậm, cành với lá làm bằng hoàng kim và bạc trắng, và chúng phóng ra ánh sáng châu báu.

Ở giữa mỗi lỗ chân lông lại hiện ra bốn ao báu với nước tám công đức tràn đầy trong ấy, và có các diệu hoa đầy khắp trong ao. Cạnh bờ ao có những cây tỏa hương thơm vi diệu cõi trời và cây hương chiên đàn.

Lại có những cây như ý trang nghiêm. Trên cây treo các mũ trời, hoa tai và còn có xâu chuỗi anh lạc được trang trí lên đó. Ở trên ấy lại treo những chuông báu, và y phục tơ lụa vi diệu.

Ở dưới mỗi cây như ý có 100 tầm hương thần vương thường tấu các loại âm nhạc. Lại có những đàn nai và bầy chim linh thiêng.

Khi chúng nghe âm nhạc đó thì thảy đều tư duy rằng:

'Đa số các chúng sanh đều thọ khổ luân hồi. Tại sao người ở Nam châu Thắng Kim phải chứng kiến và phải chịu sanh già bệnh chết, nỗi khổ của yêu thương chia lìa và các thứ khổ khác như thế?'

Khi ấy, các bầy chim và đàn nai kia suy nghĩ đến danh hiệu của Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này, thì liền đó xuất hiện những cao lương mỹ vị ngon lạ cõi trời, các hương thơm vi diệu cõi trời, y phục vi diệu cõi trời cùng những phẩm vật khác, và tùy theo tâm niệm của chúng mà tự nhiên hiện ra đầy đủ như ý muốn."




Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ-tát bạch Phật rằng:

"Con nay nghe được việc này, thật là hy hữu, thưa Thế Tôn!"

Đức Phật bảo:

"Thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao?"

Trừ Cái Chướng Bồ-tát bạch Phật rằng:

"Bởi tâm của các hữu tình kia thường tư duy và niệm danh hiệu của Kinh này nên chúng mới được những sự lợi ích an vui như vậy.

Nếu lại có người nghe được Kinh này, rồi có thể biên chép, thọ trì đọc tụng, và cung kính cúng dường, thì người như thế sẽ luôn được an vui.

Hoặc lại có người, như có thể biên chép một chữ trong Kinh này, thì người đó trong tương lai sẽ không bao giờ còn thọ khổ của luân hồi. Họ vĩnh viễn sẽ không bao giờ sanh ra trong tầng lớp hạ tiện, như là làm nghề mổ giết. Thân của họ khi sanh ra sẽ không bao giờ có những tướng xấu xa, như là gù lưng, chân tay co quắp, môi trề, khuyết tật, xấu xí, ghẻ hủi và những bệnh tật khác. Họ chỉ có thân tướng viên mãn, các căn hoàn chỉnh và có uy thế lớn. Huống nữa là công đức có được của những ai thọ trì đọc tụng, biên chép, và cung kính cúng dường Kinh này."

Lúc bấy giờ Đức Phật ngợi khen rằng:

"Lành thay, lành thay, Trừ Cái Chướng! Ông nay thật khéo diễn nói Pháp như vậy. Hiện giờ ở trong Pháp hội này có vô số tỷ trời, rồng, quỷ tiệp tật, tầm hương thần, phi thiên, kim sí điểu, nghi thần, đại mãng xà, người và phi nhân, Thanh Tín Nam, Thanh Tín Nữ, cùng các đại chúng như thế, tất cả đều nghe được Pháp mà ông đã nói. Họ nghe được Pháp môn quảng đại đó, đây là do ông đã hỏi."

Khi đó Trừ Cái Chướng Bồ-tát bạch Phật rằng:

"Bạch Thế Tôn! Nay kính mong Thế Tôn hãy tuyên thuyết diệu Pháp để cho trời người và đại chúng sanh tín tâm kiên cố."

Đức Phật liền ngợi khen rằng:

"Lành thay, lành thay, thiện nam tử! Ông lại khéo có thể hỏi thêm về sự biến hiện công đức trong lỗ chân lông nơi thân của Quán Tự Tại.




Này Trừ Cái Chướng! Trên thân của Bồ-tát lại có một lỗ chân lông trang nghiêm. Ở trong ấy có vô số tỷ ức nayuta tầm hương thần nữ với diện mạo đoan nghiêm, hình dáng diễm lệ và có đủ mọi vật báu trang nghiêm nơi thân. Tướng mạo của họ tựa như các thiên nữ. Tham sân si cùng những ách khổ đều chẳng thể nào xâm phạm. Các việc khổ não về thân mà người thế gian phải gánh chịu, một chút họ cũng chẳng lãnh thọ. Ở trong ba thời mỗi ngày [lúc mặt trời mọc, giữa trưa và mặt trời lặn], chúng tầm hương thần nữ kia đều niệm danh hiệu của Quán Tự Tại Bồ-tát. Ngay lúc đó, họ sẽ được hết thảy các vật dụng như ước muốn."

Khi ấy Trừ Cái Chướng Bồ-tát bạch Phật rằng:

"Bạch Thế Tôn! Con muốn được vào trong những lỗ chân lông kia để xem thấy các việc đó."

Đức Phật bảo:

"Thiện nam tử! Những lỗ chân lông kia ví như hư không, chẳng có ranh giới và cũng không bị chướng ngại.

Thiện nam tử! Những lỗ chân lông này là không chướng ngại và cũng không có não hại. Nếu Phổ Hiền Đại Bồ-tát vào một trong những lỗ chân lông kia và du hành suốt 12 năm, thì cũng chẳng thể đến được ranh giới. Trong mỗi lỗ chân lông, Phổ Hiền thấy có các Đức Phật đang ở trong đó. Vì thế mà Phổ Hiền chẳng thể nào thấy được ranh giới cùng khoảng cách. Thế thì chư Bồ-tát khác làm sao có thể thấy được ranh giới của những lỗ chân lông kia?"

Khi ấy Trừ Cái Chướng Bồ-tát bạch Phật rằng:

"Bạch Thế Tôn! Phổ Hiền Đại Bồ-tát vào một trong những lỗ chân lông kia và du hành suốt 12 năm mà cũng chẳng thể đến được ranh giới, và ngài lại thấy có 100 Đức Phật ở trong đó. Như Phổ Hiền Đại Bồ-tát còn chẳng thể thấy được ranh giới, thế thì con nay làm sao mà vào trong ấy cho được?"

Đức Phật bảo:

"Thiện nam tử! Đến cả Ta cũng còn không thể thấy những sự vi diệu và tịch tĩnh như vậy. Do bởi Bồ-tát là vô tướng, nên thị hiện thân lớn, đầy đủ 11 mặt với trăm ngàn con mắt quảng đại viên mãn. Bồ-tát đã đắc tương ứng địa và trụ trong vắng lặng tịch tĩnh. Bồ-tát có đại trí của không có chứng đắc và không có sự luân hồi. Bồ-tát chẳng thấy có người được ngài cứu độ và cũng không có sự phân biệt chủng tộc. Lại cũng không có trí tuệ và cũng không có lời nói; bởi các pháp như thế chỉ là như bóng và như âm vang.

Thiện nam tử! Quán Tự Tại Bồ-tát được tự tại của cái thấy, cái nghe, và tự tánh, cho đến Như Lai cũng chẳng thể thấy biết tâm niệm của Bồ-tát. Ý ông nghĩ sao?

Thiện nam tử! Phổ Hiền cùng chư Bồ-tát khác đều có đầy đủ công đức không thể nghĩ bàn, nhưng cũng chẳng thể biết rõ sự biến hóa của Quán Tự Tại.

Thiện nam tử! Quán Tự Tại Đại Bồ-tát biến hiện đủ mọi việc để cứu độ vô số tỷ ức nayuta hữu tình, khiến họ được vãng sanh về Thế giới Cực Lạc và thấy Đức Vô Lượng Thọ Như Lai. Sau đó, họ nghe được Pháp yếu và đều sẽ viên thành Phật Đạo."




Lúc ấy, Trừ Cái Chướng Bồ-tát bạch Phật rằng:

"Bạch Thế Tôn! Con không biết phải dùng phương tiện gì mới thấy được Quán Tự Tại Đại Bồ-tát?"

Đức Phật bảo:

"Thiện nam tử! Vị Bồ-tát kia sẽ đến Thế giới Kham Nhẫn này để diện kiến cùng lễ bái và cúng dường Ta."

Khi đó, Trừ Cái Chướng Bồ-tát bạch Phật rằng:

"Bạch Thế Tôn! Ngài có biết là khi nào thì Quán Tự Tại Đại Bồ-tát sẽ đến nơi này?"

Đức Phật bảo:

"Thiện nam tử! Khi thiện căn của chúng sanh trong thế giới này thành thục thì Quán Tự Tại Đại Bồ-tát sẽ đến đây."

Lúc đó Trừ Cái Chướng Đại Bồ-tát lấy tay kê lên má và suy nghĩ như vầy:

"Mình nay có tội chướng gì? Mặc dầu thọ mạng lâu dài nhưng cũng chẳng có lợi ích chi cả. Mình không thể thấy Quán Tự Tại Bồ-tát để được cung kính và lễ bái. Mình ví như kẻ mù lòa đi trên đường."

Khi ấy Trừ Cái Chướng Bồ-tát lại bạch Phật rằng:

"Bạch Thế Tôn! Quán Tự Tại Đại Bồ-tát kia thật sự là khi nào thì sẽ đến đây?"

Lúc bấy giờ Đức Phật mỉm cười và nói rằng:

"Thiện nam tử! Thời gian của Quán Tự Tại Đại Bồ-tát sẽ đến là vô thời."




Thiện nam tử! Trên thân của vị Bồ-tát kia có một lỗ chân lông tên là Sái Cam Lộ. Ở trong lỗ chân lông này có vô số tỷ ức nayuta hàng trời người đang trú ở trong đó. Họ đã chứng Địa Thứ Nhất, hoặc Địa Thứ Nhì và cho đến có vị đã chứng Địa Thứ Mười của đại Bồ-tát.

Này Trừ Cái Chướng! Ở trong lỗ chân lông Sái Cam Lộ kia có 60 dãy núi làm bằng vàng bạc báu. Mỗi dãy núi cao 60.000 yojana và có 99.000 chóp núi. Có vàng báu vi diệu cõi trời trang nghiêm xung quanh và có các bậc Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ-tát hiện đang trú ở đó.

Lại có vô số tỷ ức nayuta tầm hương thần luôn tấu các loại âm nhạc ở trong lỗ chân lông kia.

Này Trừ Cái Chướng! Ở trong lỗ chân lông Sái Cam Lộ kia lại có vô số tỷ ức nayuta cung điện được trang nghiêm toàn với như ý châu vi diệu cõi trời cùng muôn loại trân châu anh lạc. Phàm ai thấy đều tự nhiên vui thích. Ở trong những cung điện kia có chư Bồ-tát đang thuyết diệu Pháp. Sau đó, các ngài rời khỏi cung điện ấy và đi kinh hành.

Ở nơi kinh hành có 77 ao tắm với nước tám công đức tràn đầy trong ấy. Có muôn loại hoa tràn khắp trong ao, như là: hoa sen xanh, hoa súng trắng, hoa sen trắng, hoa hảo hương, hoa thích ý, và hoa thích ý lớn.

Trên đất của nơi kinh hành kia lại có cây như ý với lá làm bằng vàng bạc cõi trời, treo trên cây là những mũ trời, hoa tai, trân bảo, xâu chuỗi anh lạc, và các loại châu báu dùng để trang nghiêm.

Khi đã đi kinh hành xong, vào buổi tối, chư Bồ-tát kia nhớ tưởng đến các Pháp Đại Thừa, tư duy về Đạo tịch diệt, và tư duy về địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh. Khi đã tư duy như thế xong, các ngài nhập Từ Tâm Chánh Định.

Này Trừ Cái Chướng! Ở trong lỗ chân lông kia xuất hiện chư vị Bồ-tát như vậy.

Lại có một lỗ chân lông tên là Kim Cang Diện. Ở trong đó có vô số tỷ nghi thần. Chúng lấy các vòng hoa và quấn khắp trên thân để trang nghiêm, dùng hương xoa vi diệu để bôi lên thân mình, phàm ai thấy đều rất hoan hỷ. Chúng luôn niệm Phật Pháp Tăng và được tín tâm kiên cố. Chúng an trụ nơi các Pháp với lòng nhẫn nhục, tâm từ bi, tư duy tịch diệt và lìa xa luân hồi.

Cũng như vậy, thiện nam tử! Chúng nghi thần kia thường sanh tâm yêu mến.

Bên trong lỗ chân lông kia có vô số ngọn núi. Ở trong đó có hang kim cang báu, hang vàng báu, hang bạc báu, hang pha lê báu, hang hoa sen sắc báu, hang thanh sắc báu, và còn có đầy đủ các hang bằng bảy báu.

Như vậy, thiện nam tử! Ở trong lỗ chân lông kia có những sự biến hiện như thế.

Lại có vô số cây như ý, vô số cây chiên đàn to lớn, và các cây hương thơm vi diệu. Có vô số ao tắm, một tỷ cung điện báu cõi trời được trang nghiêm bằng châu báu pha lê, thanh tịnh vi diệu và tráng lệ đẹp đẽ. Ở những cung điện như thế có chúng nghi thần đang nghỉ ngơi trong đó. Khi nghỉ ngơi xong, chúng thuyết các Pháp vi diệu, như là Bố Thí Độ, Trì Giới Độ, Nhẫn Nhục Độ, Tinh Tấn Độ, Thiền Định Độ, và Trí Tuệ Độ.

Khi đã giảng Sáu Độ xong, ai nấy đều đi kinh hành.

Ở nơi đó có những con đường kinh hành bằng hoàng kim cùng những con đường kinh hành bằng bạc trắng. Xung quanh nơi ấy có cây như ý với vàng bạc làm lá. Trên cây có muôn loại thiên y, mũ báu, hoa tai, chuông báu, và xâu chuỗi anh lạc để trang nghiêm nơi kinh hành kia.

Ở nơi kinh hành này lại có những lầu các, chúng nghi thần kia tư duy về sự trầm luân về nỗi khổ của sanh, nỗi khổ của già, nỗi khổ của bệnh, nỗi khổ của chết, nỗi khổ của nghèo túng, nỗi khổ của yêu thương chia lìa, nỗi khổ của oán ghét gặp nhau, nỗi khổ của mong cầu không được, hoặc nỗi khổ bị đọa Địa ngục Kim Chích, Địa ngục Dây Đen, Đại địa ngục Uống Giấm, Đại địa ngục Cực Nóng, Địa ngục Hầm Lửa, hoặc sa vào loài ngạ quỷ. Chúng nghi thần kia tư duy về các khổ não khôn xiết mà các hữu tình như thế phải thọ lấy.

Lại nữa, thiện nam tử! Chúng nghi thần kia yêu thích các Pháp thâm sâu, tư duy về Viên Tịch Chân Giới. Chúng lại luôn niệm danh hiệu của Quán Tự Tại Đại Bồ-tát. Do bởi xưng niệm danh hiệu đó, nên chúng liền được đầy đủ các vật dụng như mong muốn.




Thiện nam tử! Cho dù chỉ là danh hiệu của Quán Tự Tại Đại Bồ-tát thì cũng khó mà nghe được.

Vì sao thế? Bởi vị Bồ-tát kia ví như đại cha mẹ của hết thảy chúng sanh. Ngài vì tất cả hữu tình mà ban điều không sợ hãi, khai đạo và làm Thiện Tri Thức của hết thảy chúng sanh.

Và như thế, thiện nam tử! Quán Tự Tại Đại Bồ-tát kia có Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn rất khó gặp. Nếu ai có thể xưng niệm danh hiệu của chân ngôn đó, thời họ sẽ được sanh vào trong lỗ chân lông của Bồ-tát và sẽ không trải qua sanh tử trầm luân. Sau đó, họ rời khỏi lỗ chân lông ấy rồi vào lỗ chân lông khác và trú ở đó. Cứ lần lượt như vậy cho đến khi họ chứng Đạo tịch diệt."

Khi ấy Trừ Cái Chướng Bồ-tát bạch Phật rằng:

"Bạch Thế Tôn! Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này là từ nơi nào mà chứng đắc?"

Đức Phật bảo:

"Thiện nam tử! Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này rất khó gặp, ngay cả các Đức Như Lai cũng còn chẳng biết nơi nào để chứng đắc, huống nữa là chư Bồ-tát đang ở bậc Nhân Địa thì làm sao có thể biết nơi nào để chứng đắc?"

Trừ Cái Chướng Bồ-tát bạch Phật rằng:

"Chân ngôn này, tại sao ngay cả chư Phật Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác mà cũng chẳng thể biết?"

Đức Phật bảo:

"Thiện nam tử! Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này là bổn tâm vi diệu của Quán Tự Tại Đại Bồ-tát. Nếu ai biết bổn tâm vi diệu đó thì tức là biết được giải thoát."

Trừ Cái Chướng Bồ-tát liền bạch Phật rằng:

"Bạch Thế Tôn! Có ai trong các hữu tình có thể biết được Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này chăng?"

Đức Phật bảo:

"Không một ai biết cả. Thiện nam tử! Vô lượng Như Lai cũng khó mà biết Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này, vậy thì chư Bồ-tát làm sao biết được nơi bổn tâm vi diệu của Quán Tự Tại Bồ-tát? Ta đã đến các cõi nước phương khác, nhưng cũng không thấy một ai biết được Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này.




Nếu ai có thể thường thọ trì Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này, thì trong lúc người đó trì tụng sẽ có 99 Hằng Hà sa Như Lai đều đến hội họp. Lại có chư Bồ-tát nhiều như số vi trần cũng đến hội họp. Lại có 33 vị thiên tử cũng đều đến hội họp. Lại có Tứ Đại Thiên Vương sẽ hộ vệ người đó ở bốn phương. Lại có Hải Long Vương, Vô Nhiệt Não Long Vương, Đa Thiệt Long Vương, Cửu Đầu Long Vương, và vô số tỷ ức nayuta long vương như thế cũng đến hộ vệ người ấy. Lại có địa hành quỷ tiệp tật, chư thần trong hư không, và các hữu tình khác cũng hộ vệ người đó.

Thiện nam tử! Trong các lỗ chân lông của Quán Tự Tại Bồ-tát có hàng ức số Như Lai đang ở bên trong.

Họ sẽ ngợi khen người đó rằng:

'Lành thay, lành thay, thiện nam tử! Ông có thể được như ý châu này, thì tổ tiên trong bảy đời của ông đều sẽ được giải thoát.'

Thiện nam tử! Phàm người trì tụng chân ngôn này thì các loài trùng trong bụng của họ sẽ được quả vị không thoái chuyển của bậc Bồ-tát.

Thiện nam tử! Nếu lại có người đeo Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này trên cổ hay mang ở trong mình, thì khi ai đó thấy người ấy,
- cũng tức đồng như thấy được thân kim cang,
- lại cũng như thấy được tháp xá-lợi,
- lại cũng như thấy được Như Lai,
- lại cũng như thấy được người có đầy đủ một ức trí tuệ.

Nếu có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào mà có thể y Pháp tu hành và niệm Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này, thì người đó sẽ được vô lượng biện tài, trí tuệ thanh tịnh và lòng từ bi rộng lớn. Mỗi ngày người đó sẽ được đầy đủ Sáu Độ và thành tựu công đức viên mãn. Người này sẽ được quán đảnh Thiên Chuyển Luân. Khi hơi thở của người ấy tỏa ra và chạm vào thân người khác, thì người bị chạm đến sẽ phát khởi lòng từ và rời xa các độc của sân. Họ sẽ trở thành Bồ-tát không thoái chuyển và sẽ mau chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Nếu người nào mang hoặc đeo chân ngôn này mà tay của họ chạm vào thân người khác, thì người bị chạm đó sẽ sớm được quả vị Bồ-tát.

Nếu người nào mang hoặc đeo chân ngôn này mà họ gặp thấy người nam, người nữ, bé trai, bé gái, và cho đến các loài hữu tình khác, thì những người gặp thấy đó sẽ thảy đều sớm được quả vị Bồ-tát.

Người thọ trì chân ngôn như thế sẽ vĩnh viễn không bao giờ phải thọ nỗi khổ của sanh già bệnh chết, hoặc nỗi khổ của yêu thương chia lìa. Khi tụng niệm, họ sẽ được sự cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn.

Nay, Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này được thuyết giảng như vậy."

Phật Thuyết Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương ♦ Hết quyển 3

Phật Thuyết Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương ♦ Quyển 4


Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ-tát bạch Phật rằng:

"Bạch Thế Tôn! Nay con phải làm thế nào mới chứng đắc Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này? Phàm ai chứng đắc thời sẽ tương ứng chẳng thể nghĩ bàn của vô lượng thiền định và tức đồng như chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chân ngôn này sẽ dẫn vào môn giải thoát, hiển bày cảnh giới tịch diệt, diệt trừ vĩnh viễn tham sân si, thành tựu Pháp tạng viên mãn, phá hủy năm đường luân hồi, thanh tịnh các địa ngục, đoạn trừ mọi phiền não, cứu độ chúng bàng sanh, và viên mãn Pháp vị.

Nếu dùng Nhất Thiết Chủng Trí để diễn nói công đức chân ngôn này thì cũng chẳng thể nói hết.

Bạch Thế Tôn! Con cần có Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này. Vì chân ngôn này, con sẽ lấy bảy báu đầy khắp trong bốn châu lớn để bố thí và lấy dùng biên chép.

Bạch Thế Tôn! Nếu vẫn không đủ mực, giấy, hoặc bút, con sẽ dùng thân thể của con để chích máu làm mực, lóc da làm giấy, và chẻ xương làm bút.

Thưa Thế Tôn! Con sẽ không bao giờ hối tiếc và con tôn trọng chân ngôn này như cha mẹ của chính mình."




Lúc bấy giờ Phật bảo Trừ Cái Chướng Bồ-tát rằng:

"Thiện nam tử! Nhớ lại vào thuở quá khứ, ta vì Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này mà đã đi qua khắp các thế giới nhiều như số vi trần và cúng dường vô số tỷ ức nayuta Như Lai. Nhưng ở nơi của các Đức Như Lai kia, ta vẫn chưa hề chứng đắc hay nghe tới. Lúc đó trong đời có Đức Phật hiệu là Bảo Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Khi ấy ta ở trước Đức Phật kia mà rơi lệ than khóc.

Lúc bấy giờ Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác kia bảo ta rằng:

'Thiện nam tử! Ông chớ than khóc nữa. Thiện nam tử! Ông hãy đi đến thế giới của Liên Hoa Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Ở chỗ ấy, Đức Phật kia biết được Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này.'




Thiện nam tử! Sau đó ta từ biệt Bảo Thượng Như Lai và đi đến Phật độ của Liên Hoa Thượng Như Lai.

Khi đến nơi, ta đảnh lễ với trán chạm sát chân của Phật, rồi ở trước Đức Phật kia và chắp tay bạch rằng:

'Kính mong Thế Tôn hãy truyền cho con Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn. Thần chú kia là vua chân ngôn của tất cả bổn mẫu. Nếu nhớ niệm danh hiệu đó thời các nghiệp tội cấu uế sẽ tiêu trừ và mau thành Phật. Con bây giờ đã kiệt sức, bởi vì con đã đến vô số thế giới mà vẫn không thể chứng đắc. Tới bây giờ, con mới đến được nơi này.'

Khi đó, Liên Hoa Thượng Như Lai liền nói công đức của Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này rằng:

'Thiện nam tử! Ta có thể đếm số lượng của hết thảy vi trần, nhưng thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này, thì Ta chẳng thể nào đếm được số lượng phước đức có được của họ.

Thiện nam tử! Lại ví như biển cả, Ta có thể đếm từng hạt cát trong đó, nhưng thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này, thì Ta chẳng thể nào đếm được số lượng phước đức có được của họ.

Thiện nam tử! Lại ví như có vị thiên nhân tạo lập một kho chứa đồ với chu vi là 1.000 yojana và cao 1.000 yojana, tích trữ đầy khắp trong đó toàn là hạt mè đến một chỗ trống nhỏ như cây kim cũng chẳng có. Lại nữa, người canh giữ nơi đó không bị già và không bị chết. Cứ mỗi 100 kiếp, người ấy vứt một hạt mè ra ngoài và cứ như thế cho đến khi người ấy vứt hết không còn một hạt nào. Ta có thể đếm số lượng đó, nhưng thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này, thì Ta chẳng thể nào đếm được số lượng phước đức có được của họ.

Thiện nam tử! Lại ví như bốn châu lớn, trong đó trồng muôn loại lúa gạo cùng những cây khác. Vua rồng làm mưa và lúc đến mùa thì các cây đó đều chín rộ. Khi đã thu hoạch xong tất cả, hãy lấy một Nam châu Thắng Kim làm sân, rồi dùng xe cộ để vận chuyển hết về sân và tích tụ thành một đống lớn. Thiện nam tử, Ta có thế đếm từng hạt trong đó, nhưng thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này, thì Ta chẳng thể nào đếm được số lượng phước đức có được của họ.

Thiện nam tử! Ở Nam châu Thắng Kim có những con sông lớn chảy suốt ngày đêm, như là: sông Lãnh, sông Hằng, sông Yamunā, sông Thanh, sông Śatadruḥ, sông Candrabhāgā, sông Erāvatī, sông Sumāgandhā, sông Himaratī, và sông Kalaśodarī. Mỗi con sông này có 5.000 con sông nhỏ và chảy suốt ngày đêm vào biển lớn. Thiện nam tử, Ta có thể đếm từng giọt nước trong những con sông lớn kia, nhưng thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này, thì Ta chẳng thể nào đếm được số lượng phước đức có được của họ.

Thiện nam tử! Lại ví như trong bốn châu lớn có các loài hữu tình bốn chân, như là: sư tử, voi, ngựa, bò rừng, trâu nước, cọp, sói, khỉ, nai, dê, cừu, chó rừng, thỏ, và các loài bốn chân như thế. Ta có thể đếm từng sợi lông của chúng, nhưng thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này, thì Ta chẳng thể nào đếm được số lượng phước đức có được của họ.

Thiện nam tử! Lại ví như vua núi kim cang hình móc câu, chiều cao 99.000 yojana, độ sâu 84.000 yojana, chiều dài 84.000 yojana, và chiều rộng là 84.000 yojana. Ở trên núi kia có một người không già không chết, người ấy trải qua một kiếp mới đi hết một vòng của núi kia. Vua núi như thế, Ta có thể dùng y phục tơ lụa để quét sạch đến không còn một chút gì, nhưng nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này, thì Ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được của họ.

Thiện nam tử! Lại ví như biển cả, độ sâu là 84.000 yojana, còn mặt biển trải rộng thì vô lượng. Ta có thể dùng trên đầu của một sợi lông để chấm vào biển nước, và chấm cho đến khi hết sạch, nhưng thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này, thì Ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được của họ.

Thiện nam tử! Lại ví như rừng cây lớn hợp hoan, Ta có thể đếm từng lá một, nhưng thiện nam tử, nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này, thì Ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được của họ.

Thiện nam tử! Lại ví như trong bốn châu lớn có đầy khắp kẻ nam người nữ và bé trai bé gái đang trú ở đó, giả như tất cả họ đều đắc Địa Thứ Bảy của Bồ-tát, thì công đức của chư Bồ-tát kia cùng công đức người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này bằng nhau không khác.

Thiện nam tử! Trừ những năm có 12 tháng ra, hãy lấy những tháng dư của các năm có 13 tháng mà cộng lại thành một năm và rồi làm thành trọn một kiếp trên cõi trời. Giả như trời mưa ngày đêm suốt một kiếp đó, thiện nam tử, Ta có thể đếm từng giọt nước mưa, nhưng nếu có người niệm một biến của Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này, thì số lượng công đức của họ còn nhiều hơn số kia. Ý ông nghĩ sao?

Thiện nam tử! Lại ví như có một ức vị Như Lai đồng ở tại một nơi và có người trải qua thời gian một kiếp trên cõi trời, lấy y phục, ẩm thực, giường nệm, thuốc thang và đủ các vật thọ dụng để cúng dường chư Như Lai kia. Tuy nhiên, công đức đó vẫn còn có thể biết được, nhưng công đức có được của Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này thì cũng không thể nào biết hết số lượng. Chẳng phải chỉ có Ta nay ở tại thế giới này, mà dù cho Ta ở trong định thì công đức ấy cũng chẳng thể suy lường.

Thiện nam tử! Pháp này rất vi diệu, hết thảy đều tương ứng với Gia Hạnh Quán Trí. Vào đời vị lai, ông sẽ đắc tâm Pháp vi diệu này. Vị Quán Tự Tại Đại Bồ-tát kia khéo trụ nơi Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn như vậy đó.




Thiện nam tử! Thuở xưa, Ta dùng Gia Hạnh đi qua khắp vô số tỷ ức nayuta thế giới để đến chỗ của Đức Vô Lượng Thọ Như Lai. Ta chắp tay ở trước Ngài và vì Pháp này mà Ta rơi lệ than khóc.

Khi ấy Đức Vô Lượng Thọ Như Lai thấy biết được nhân duyên của Ta ở hiện tại cùng vị lai mà bảo Ta rằng:

"Thiện nam tử! Ông cần Lục Tự Đại Minh Vương Quán Hạnh Tương Ứng này phải không?"

Ta liền thưa rằng:

"Thưa Thế Tôn! Con cần Pháp này. Thưa Thiện Thệ! Con cần Pháp này. Con cần Pháp đó như người khát nước. Thưa Thế Tôn! Con vì Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này mà đã du hành qua vô số thế giới để cúng dường cho vô số tỷ ức nayuta Như Lai, nhưng con vẫn chưa từng đắc Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này. Kính mong Thế Tôn cứu giúp sự ngu độn của con, như người không đầy đủ mà khiến được đầy đủ, như người bị lạc đường mà chỉ dẫn đúng đường, như dưới ánh nắng chói chang mà trồng cây sāla ở ngã tư đường để làm tàng cây che mát. Tâm con rất khao khát Pháp này. Kính mong Thế Tôn hãy khai thị chỉ bảo, khiến con khéo trụ nơi Đạo cứu cánh và mặc áo giáp kim cang."

Lúc bấy giờ Đức Vô Lượng Thọ Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác dùng âm vang như tiếng của chim diệu thanh mà bảo Quán Tự Tại Đại Bồ-tát rằng:

"Thiện nam tử! Ông thấy Đức Liên Hoa Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài vì Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này mà đã đi qua khắp vô số tỷ ức nayuta thế giới.

Thiện nam tử! Ông nên truyền Lục Tự Đại Minh Vương, bởi Đức Như Lai kia vì chân ngôn đó mà đến nơi này."

Quán Tự Tại Bồ-tát thưa với Đức Thế Tôn kia rằng:

"Phàm ai không thấy Pháp đàn thì chẳng thể đắc Pháp này. Huống nữa là làm sao biết được Liên Hoa Ấn? Làm sao biết được Trì Maṇi Ấn? Làm sao biết được Nhất Thiết Vương Ấn? Và làm sao biết được Pháp đàn Thanh Tịnh Thể?

Tướng trạng của Pháp đàn này có chu vi hình vuông với độ dài năm khuỷu tay. Ở chính giữa Pháp đàn an lập một hình tượng của Đức Phật Vô Lượng Thọ. Rải xung quanh là các loại bột quý báu, gồm có: bột lam bảo thạch, bột ngọc bích, bột xích châu, bột pha lê, và bột vàng bạc.

Ở bên phải hình tượng của Đức Vô Lượng Thọ Như Lai an lập một hình tượng của Trì Đại Maṇi Bảo Bồ-tát. Ở bên trái của Phật an lập một hình tượng của Lục Tự Đại Minh Vương với bốn cánh tay, màu da trắng như nguyệt sắc, và có đủ mọi châu báu trang nghiêm nơi thân. Cánh tay trái ở trên cầm một hoa sen và trên hoa sen có một như ý châu, còn cánh tay phải ở trên cầm xâu chuỗi. Hai cánh tay ở dưới kiết ấn Nhất Thiết Vương. Ở dưới chân của Lục Tự Đại Minh Vương có chư thiên với đủ mọi châu báu dùng làm trang nghiêm. Bên tay phải của họ cầm một lư hương và lòng bàn tay bên trái giữ một bình bát với châu báu đầy khắp trong đó. Ở bốn phía góc của Pháp đàn an trí hình tượng của Tứ Đại Thiên Vương và trong tay họ cầm muôn loại binh khí cùng gậy. Ở bên ngoài bốn phía góc của Pháp đàn an bày bốn cái hiền bình và trong bình chứa đầy khắp muôn loại như ý châu.

Nếu có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào muốn vào Pháp đàn này, thì quyến thuộc của họ không được cùng vào chung trong Pháp đàn. Nhưng trước khi họ vào, người ấy có thể ghi tên thân quyến của họ lên một tờ giấy, rồi liệng tờ giấy đó vào trong Pháp đàn, thời quyến thuộc của họ đều sẽ đắc quả vị Bồ-tát. Còn người vào trong đó sẽ xa rời mọi khổ não và mau chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vị Giáo Thọ không được vọng truyền Pháp này. Nếu có người khéo dùng thiện xảo phương tiện để chỉ bày cho người khác cùng thâm tín nơi Pháp Đại Thừa Gia Hạnh và chí tâm cầu giải thoát, thì vị Giáo Thọ nên truyền Pháp này cho những người như thế mà chẳng nên truyền cho hàng ngoại đạo quái dị."

Lúc bấy giờ Đức Vô Lượng Thọ Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác bảo Quán Tự Tại Đại Bồ-tát rằng:

"Thiện nam tử! Nếu họ có năm loại bột quý báu như thế, thì có thể thiết lập Pháp đàn này; nhưng nếu các thiện nam tử hay thiện nữ nhân đó nghèo túng, hoặc chẳng thể gom đủ những loại bột quý báu đó thời phải làm sao?"

Ngài Quán Tự Tại bạch rằng:

"Bạch Thế Tôn! Họ có thể dùng phương tiện, bằng cách lấy các vật liệu với nhiều màu sắc, và dùng muôn loại hương hoa để cúng dường. Nếu với phương thức đó mà thiện nam tử kia vẫn không làm được, hoặc vì họ đang ở trọ hay đang lữ hành, vị Giáo Thọ có thể vận dụng ý lực để nghĩ tưởng và tạo thành Pháp đàn cùng kiết ấn Giáo Thọ."'

Lúc bấy giờ Đức Liên Hoa Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác nói với Quán Tự Tại Bồ-tát rằng:

'Thiện nam tử! Xin hãy nói cho Ta biết Lục Tự Đại Minh Vương này. Ta thỉnh cầu là vì muốn cho vô số tỷ ức nayuta hữu tình, khiến họ lìa khỏi khổ não của luân hồi và mau chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.'

Lúc đó Quán Tự Tại Đại Bồ-tát truyền Lục Tự Đại Minh Vương này cho Đức Liên Hoa Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác.

Chú thuyết như vầy:

|| án ma ni bát di hồng ||

|| oṃ maṇi padme hūṃ ||

Đương lúc tuyên thuyết Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này, thì bốn châu lớn và cung điện của chư thiên thảy đều chấn động như tàu lá chuối. Nước trong bốn biển lớn vọt phun và nổi sóng cuồn cuộn. Hết thảy loài gieo rắc tai ương, như là chướng ngại thần, quỷ tiệp tật, quỷ bạo ác, quỷ úng hình, đại hắc thiên, với những loài khác cùng quyến thuộc của chúng ma, tất cả đều hốt hoảng giải tán và tháo chạy biệt tăm.

Lúc bấy giờ Đức Liên Hoa Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác duỗi cánh tay ra như cái vòi của con voi chúa và trao cho Quán Tự Tại Đại Bồ-tát xâu chuỗi anh lạc với trị giá bằng trăm ngàn trân châu báu để cúng dường. Quán Tự Tại Bồ-tát thọ nhận, rồi ngài dâng lên cho Đức Vô Lượng Thọ Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Đức Phật kia nhận xong, rồi Ngài lại cầm trao cho Đức Liên Hoa Thượng Như Lai. Khi Đức Phật Liên Hoa Thượng đã đắc Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này xong, Ngài trở về Thế giới Liên Hoa Thượng.

Và như thế, thiện nam tử! Ta vào thuở quá khứ đã nghe được chân ngôn này từ nơi của Đức Liên Hoa Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác kia."




Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ-tát thưa với Phật rằng:

"Thưa Thế Tôn! Con phải làm thế nào mới chứng đắc Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này?

Thưa Thế Tôn! Thần chú này có đầy đủ đức vị của cam lộ.

Thưa Thế Tôn! Nếu con nghe được thần chú này, con sẽ luôn nhớ niệm, tư duy cùng thọ trì mà không dám lãng quên. Con muốn làm cho các hữu tình nghe được Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này, để họ có được công đức lớn. Cúi mong Thế Tôn hãy thuyết giảng."

Đức Phật bảo:

"Thiện nam tử! Nếu có người biên chép Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này thì tức bằng như biên chép 84.000 Pháp tạng--không chút sai khác.

Nếu có người dùng vàng báu cõi trời để tạo lập hình tượng của các Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác nhiều như số vi trần, sau khi làm xong, họ tán thán và cúng dường trong một ngày, thì quả báo đạt được sẽ không bằng biên chép một chữ trong Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này. Quả báo công đức của thần chú này là chẳng thể nghĩ bàn và khéo dẫn họ trụ ở giải thoát.

Nếu có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào y Pháp tu hành và niệm Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này, thì người đó sẽ đắc các chánh định, như là:

- Trì Maṇi Bảo Chánh Định,
- Quảng Bác Chánh Định,
- Thanh Tịnh Địa Ngục Bàng Sanh Chánh Định,
- Kim Cang Giáp Trụ Chánh Định,
- Diệu Túc Bình Mãn Chánh Định,
- Nhập Chư Phương Tiện Chánh Định,
- Nhập Chư Pháp Chánh Định,
- Quán Trang Nghiêm Chánh Định,
- Pháp Xa Thanh Chánh Định,
- Viễn Ly Tham Sân Si Chánh Định,
- Vô Biên Tế Chánh Định,
- Lục Độ Môn Chánh Định,
- Trì Đại Diệu Cao Chánh Định,
- Cứu Chư Bố Úy Chánh Định,
- Hiện Chư Phật Sát Chánh Định,
- Quán Sát Chư Phật Chánh Định,
- và các chánh định như thế; họ sẽ đắc 108 chánh định cả thảy."




Khi đó Trừ Cái Chướng Bồ-tát bạch Phật rằng:

"Bạch Thế Tôn! Nay con phải đến nơi nào để con có thể chứng đắc Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này? Xin Thế Tôn hãy khai thị."

Đức Phật bảo:

"Thiện nam tử! Trong Đại thành Lộc Dã có một vị Pháp sư thường tư duy, thọ trì, và tụng niệm Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này."

Trừ Cái Chướng Bồ-tát bạch Phật rằng:

"Bây giờ con muốn đến Đại thành Lộc Dã để diện kiến, lễ bái, và cúng dường vị Pháp sư kia."

Đức Phật bảo:

"Lành thay, lành thay, thiện nam tử! Vị Pháp sư kia rất khó gặp. Do ngài có thể thọ trì Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này, cho nên khi thấy được vị Pháp sư đó,

- thì như thấy được Như Lai không khác,
- như thấy được công đức thánh địa,
- như thấy được nơi hội tụ của phước đức,
- như thấy được nơi tích trữ của trân bảo,
- như thấy được thí nguyện,
- như thấy được như ý châu,
- như thấy được Pháp tạng,
- và như thấy được bậc thánh khéo cứu độ thế gian.

Thiện nam tử! Khi ông thấy vị Pháp sư kia thì không được sanh lòng khinh mạn hay hoài nghi.

Thiện nam tử, Ta e sợ ông sẽ quên mất Đạo Bồ-tát và sa đọa trầm luân, bởi vì giới hạnh của vị Pháp sư kia khiếm khuyết và sai phạm. Ngài có vợ, còn phân với nước tiểu dính áo cà sa, và chẳng có uy nghi."

Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ-tát bạch Phật rằng:

"Con xin vâng lời Phật dạy."




Và thế là, Trừ Cái Chướng Bồ-tát cùng với vô số chư Bồ-tát, hàng xuất gia, trưởng giả, đồng nam, và đồng nữ, đều hân hoan muốn đến nơi đó để cúng dường. Họ cầm theo lọng che cõi trời cùng các phẩm vật cúng dường, như là: mũ báu, hoa tai, xâu chuỗi anh lạc trang nghiêm, nhẫn đeo tay, vòng xuyến báu, y phục tơ lụa, vải lụa và giường nệm.

Lại có muôn loại hoa vi diệu, như là: hoa sen xanh, hoa súng trắng, hoa sen trắng, hoa thích ý, hoa thích ý lớn, hoa nhu nhuyễn, hoa nhu nhuyễn lớn, và hoa linh thụy.

Lại có muôn loại cây hoa, như là: hoa ngọc lan, hoa trúc đào, hoa kèn, hoa long thỉ, hoa dành dành, hoa nhài hình ngôi sao, hoa lài, và hoa hoàng sắc.

Lại có chim uyên ương, bạch hạc, và thu lộ bay theo sau.

Lại có 100 loại lá cây, như là màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, pha lê, và những màu sắc khác.

Lại có muôn loại trái cây quý hiếm.

Họ mang theo những vật cúng dường như thế, rồi hướng về Đại thành Lộc Dã và đi đến chỗ của vị Pháp sư.

Khi đến nơi, họ cúi đầu đảnh lễ với trán chạm sát chân của ngài. Tuy họ thấy giới hạnh của vị Pháp sư kia khiếm khuyết, sai phạm và chẳng có uy nghi, nhưng họ vẫn vui mừng và cúng dường ngài với lọng che, hương hoa, y phục, vật báu trang nghiêm cùng những phẩm vật khác đã mang theo.

Khi đã cúng dường xong, họ chắp tay và đứng ở phía trước của vị Pháp sư kia mà thưa rằng:

"Đại Pháp tạng là tạng của vị cam lộ, là biển Pháp thâm sâu, và rộng lớn như hư không. Tất cả hàng người đều nghe ngài thuyết Pháp. Lúc ngài thuyết Pháp thì hàng trời, rồng, quỷ tiệp tật, tầm hương thần, phi thiên, kim sí điểu, đại mãng xà, người và phi nhân, hết thảy đều đến nghe ngài thuyết Pháp. Ngài như đại kim cang, khiến cho các hữu tình giải thoát khỏi sự trói buộc cùng quả báo của luân hồi và làm cho họ có được phước đức. Vì dân chúng sống trong Đại thành Lộc Dã này thường thấy được ngài nên các tội thảy đều tiêu trừ, như lửa thiêu đốt rừng cây. Chỉ có các Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác mới hiểu rõ ngài.

Hôm nay có vô số tỷ ức nayuta chư Bồ-tát đều hân hoan đi đến chỗ của ngài để cúng dường. Lại có Đại Phạm Thiên Vương, Đại Lực Thiên, Đại Tự Tại Thiên, nhật thiên, nguyệt thiên, phong thiên, thủy thiên, hỏa thiên, Diêm Vương Thiên Tử cùng Tứ Đại Thiên Vương cũng đều đến cúng dường."

Lúc bấy giờ vị Pháp sư nói rằng:

"Thiện nam tử! Ông đang nói đùa phải không?

Thánh giả! Ông có thật sự là vì thế gian mà cầu mong đoạn trừ phiền não của luân hồi không?

Thiện nam tử! Nếu có ai chứng đắc Lục Tự Đại Minh Vương này thì ba độc của tham sân si chẳng thể làm nhiễm ô người đó. Người ấy ví như châu báu màu vàng tím--trần cấu chẳng thể nào xâm nhiễm.

Thế nên, thiện nam tử! Nếu có ai mang hoặc đeo Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này trong mình, thì người đó cũng sẽ không bị các chứng bệnh của tham sân si xâm nhiễm."

Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ-tát cầm bàn chân của vị Pháp sư kia mà bạch rằng:

"Con vẫn chưa có đầy đủ con mắt sáng và mê mất Đạo nhiệm mầu, ai sẽ làm người chỉ dẫn cho con? Nay con khát ngưỡng Pháp vị, xin ngài hãy ban cho Pháp vị. Hiện tại con chưa đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, xin hãy khiến chúng con khéo an trụ nơi hạt giống của Pháp tuệ giác, chứng sắc thân thanh tịnh, cùng được thiện căn bất hoại, và làm cho các hữu tình đều được Pháp này."

Khi đó, đại chúng đồng nói rằng:

"Xin chớ giữ cho riêng mình! Kính mong Pháp sư hãy truyền Pháp Lục Tự Đại Minh Vương và như thế sẽ khiến chúng con mau đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, khiến chúng con có thể chuyển 12 Pháp luân để cứu độ tất cả hữu tình thoát khỏi sự khổ não của luân hồi. Chúng con chưa từng bao giờ nghe được Pháp Đại Minh Vương này. Giờ đây mong Pháp sư hãy truyền Lục Tự Đại Minh Vương, để chúng con có thể làm nơi nương tựa cho những ai không người cứu hộ, mà làm ngọn đèn sáng trong đêm tối."




Lúc ấy, vị Pháp sư kia bảo rằng:

"Lục Tự Đại Minh Vương này rất khó gặp:
- như kim cang không gì có thể phá hoại;
- như thấy được trí tuệ vô thượng;
- như thấy được trí tuệ vô tận;
- như thấy được trí tuệ thanh tịnh của Như Lai;
- như vào vô thượng giải thoát, xa lìa tham sân si và khổ não của luân hồi;
- như vào thiền định, giải thoát, chánh định, và Đẳng Chí;
- như vào tất cả pháp mà chư thánh thường yêu mến.

Nếu có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào vì cầu giải thoát mà tuân theo đủ mọi pháp của ngoại đạo ở khắp nơi, như là: thờ kính Đế Thích, hoặc thờ kính hàng bạch y, hoặc thờ kính hàng thanh y, hoặc thờ kính nhật thiên, hoặc thờ kính Đại Tự Tại Thiên, hoặc thờ kính Đại Lực Thiên, hoặc họ ở trong chúng kim sí điểu hay trong hàng ngoại đạo lõa hình. Tuy họ yêu mến các nơi như vậy, nhưng chẳng thể nào giải thoát ra khỏi vô minh. Sự tu hành của họ chỉ có danh nghĩa, hư vọng như hư không, và chỉ tự mình làm khổ nhọc chính mình.

Hết thảy thiên chúng, Đại Phạm Thiên Vương, Đế Thích Thiên Chủ, Đại Lực Thiên, Đại Tự Tại Thiên, nhật thiên, nguyệt thiên, phong thiên, thủy thiên, hỏa thiên, Diêm Vương Thiên Tử, và Tứ Đại Thiên Vương, tất cả họ luôn mong được Lục Tự Đại Minh Vương của ta. Bởi vì nếu họ chứng đắc Lục Tự Đại Minh Vương của ta, thời đều sẽ được giải thoát.

Thiện nam tử! Chân ngôn này là mẹ Trí Độ của hết thảy Như Lai. Khi tuyên thuyết Lục Tự Đại Minh Vương này thì tất cả Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác cùng chư Bồ-tát thảy đều cung kính chắp tay và đảnh lễ.

Thiện nam tử! Trong Đại Thừa, Pháp này là tối thượng, tinh thuần, và vi diệu.

Vì sao thế? Bởi Pháp này bao gồm hết thảy Khế Kinh Đại Thừa, như là: Trường Hàng, Trùng Tụng, Cô Khởi, Tỷ Dụ, Nhân Duyên, Tự Thuyết, Bổn Sanh, Bổn Sự, Vị Tằng Hữu, Phương Quảng, Luận Nghị, và Thọ Ký.

Thiện nam tử! Nếu ai chứng đắc bổn mẫu của chân ngôn này thì có cần thiết tu tập các môn tịch tĩnh giải thoát khác nữa không? Ví dụ như có người đến mùa thu hoạch lúa, họ bỏ lúa vào bao và mang về nhà. Sau đó, họ lấy lúa đi phơi khô, rồi đập, giã, và quạt để lấy vỏ trấu ra. Cuối cùng họ có được những hạt gạo tinh sạch. Cũng như vậy, trong tất cả các môn tương ứng, các môn tương ứng khác ví như vỏ trấu, còn Lục Tự Đại Minh Vương này thì ví như gạo trắng.

Thiện nam tử! Chư Bồ-tát vì Pháp này mà tu hành Bố Thí Độ, Trì Giới Độ, Nhẫn Nhục Độ, Tinh Tấn Độ, Thiền Định Độ, và Trí Tuệ Độ.

Thiện nam tử! Lục Tự Đại Minh Vương này rất khó gặp. Như chỉ niệm một biến thì người này sẽ được tất cả Như Lai lấy y phục, ẩm thực, giường nệm, thuốc thang và những phẩm vật khác để cúng dường."




Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ-tát thưa với Pháp sư rằng:

"Xin hãy truyền cho con Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn!"

Vị Pháp sư kia liền chánh niệm tư duy và bỗng nhiên trong hư không có tiếng rằng:

"Thánh giả! Hãy truyền Lục Tự Đại Minh Vương này cho ông ta."

Vị Pháp sư kia liền tư duy:

"Tiếng này là từ đâu phát ra?"

Trong hư không lại có tiếng vọng ra rằng:

"Thánh giả! Nay vị Bồ-tát đó tu hành Pháp Gia Hạnh và chí tâm khẩn cầu. Thánh giả hãy truyền Lục Tự Đại Minh Vương này cho ông ta."

Vị Pháp sư kia liền quán sát trong hư không thì thấy Liên Hoa Thủ Bồ-tát và Liên Hoa Cát Tường Bồ-tát. Thân tướng các ngài như màu của ánh trăng mùa thu. Trên đỉnh đầu đội mũ báu Nhất Thiết Trí--thù diệu trang nghiêm.

Khi đã thấy thân tướng như thế, vị Pháp sư bảo ngài Trừ Cái Chướng rằng:

"Thiện nam tử! Quán Tự Tại Đại Bồ-tát bảo ta truyền cho ông Lục Tự Đại Minh Vương. Ông hãy lắng nghe."

Ngài Trừ Cái Chướng liền chắp tay cung kính để nghe Lục Tự Đại Minh Vương này.

Chú thuyết như vầy:

|| án ma ni bát di hồng ||

|| oṃ maṇi padme hūṃ ||

Đương lúc tuyên thuyết chân ngôn này thì đại địa đều chấn động sáu cách. Trừ Cái Chướng Bồ-tát liền đắc chánh định đó và còn đắc thêm Vi Diệu Tuệ Chánh Định, Phát Khởi Từ Bi Chánh Định, và Tương Ứng Hành Chánh Định. Khi đã đắc các môn chánh định ấy, Trừ Cái Chướng Đại Bồ-tát liền dùng bảy báu tràn khắp trong bốn châu lớn mà phụng hiến cúng dường cho vị Pháp sư.

Lúc đó vị Pháp sư bảo rằng:

"Sự cúng dường của ông bây giờ còn chưa đáng bằng một chữ của Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn. Thế thì làm sao cúng dường trọn cả sáu chữ? Thiện nam tử! Ông là Bồ-tát, là một bậc thánh, chứ không phải phàm phu."

Khi ấy, ngài Trừ Cái Chướng lại dùng xâu chuỗi anh lạc với trị giá bằng trăm ngàn trân châu báu để cúng dường vị Pháp sư.

Lúc đó vị Pháp sư kia nói rằng:

"Thiện nam tử! Hãy nghe tôi nói, ông nên cầm những châu báu này mà cúng dường cho Đức Năng Nhân Tịch Tĩnh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác."




Lúc bấy giờ, Trừ Cái Chướng Bồ-tát cúi đầu đảnh lễ với trán chạm sát chân của vị Pháp sư. Lễ xong, trong lòng được mãn nguyện toại ý, rồi từ biệt cáo lui và trở về Tinh xá Kỳ Viên. Khi đã về đến nơi, ngài đảnh lễ với trán chạm sát chân của Phật.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn Năng Nhân Tịch Tĩnh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác bảo rằng:

"Thiện nam tử! Ta biết ông đã chứng đắc."

"Dạ vâng, thưa Thế Tôn!"

Ngay lúc ấy có 77 ức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác đều đến hội họp và chư Như Lai kia đồng tuyên thuyết thần chú như vầy:

|| nam mô tát đa nẩm, tam miệu tam bồ đà, cu chi nẩm, đát điệt tha, án, chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, ta bà ha. ||

|| namaḥ saptānāṃ samyak-saṃbuddha-koṭīnāṃ tadyathā oṃ cale cule cunde svāhā ||

[Khi đó, Đức Phật bảo:]

"Đương lúc 77 ức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác tuyên thuyết thần chú này, thì trên thân của Quán Tự Tại Bồ-tát có một lỗ chân lông, tên là Nhật Quang Minh. Trong ấy có vô số tỷ ức nayuta Bồ-tát. Ở trong lỗ chân lông Nhật Quang Minh kia lại có 12.000 dãy núi vàng. Mỗi dãy núi có 1.200 chóp núi. Giáp vòng trên núi có hoa sen báu rực rỡ trang nghiêm. Xung quanh các núi kia có như ý châu cõi trời và khu viên lâm thích ý.

Trong lỗ chân lông kia còn có đủ mọi ao hồ cõi trời. Lại có vô số tỷ lầu các được trang nghiêm bằng vàng báu. Treo trên ấy có trăm ngàn y phục và trân châu anh lạc. Trong những lầu các kia có như ý châu vi diệu. Như ý châu này cung cấp cho chư đại Bồ-tát kia tất cả những vật dụng theo ý muốn.

Khi đó chư Bồ-tát vào trong những lầu các, rồi họ niệm Lục Tự Đại Minh Vương và liền thấy Đạo tịch diệt. Khi đã đến Đạo tịch diệt, các ngài thấy Như Lai cùng quán thấy Quán Tự Tại Đại Bồ-tát và tâm liền sanh hoan hỷ. Tiếp đó, chư Bồ-tát này rời khỏi những lầu các kia và đến nơi kinh hành. Ở nơi kinh hành ấy có các vườn báu, các ngài đi đến đó và rồi lại đi đến ao tắm. Sau đó, họ lại đi lên núi báu có hoa sen rực rỡ, rồi đồng xoay mặt về một hướng, ngồi xếp bằng với tư thế hoa sen và nhập chánh định.

Và như thế, thiện nam tử! Chư Bồ-tát đó đang trú ở trong lỗ chân lông kia.

Thiện nam tử! Lại có một lỗ chân lông tên là Đế Thích Vương. Trong ấy có vô số tỷ ức nayuta Bồ-tát không thoái chuyển. Ở trong lỗ chân lông Đế Thích Vương này lại có 80.000 ngọn núi vàng báu cõi trời. Trong các ngọn núi này có như ý châu, tên là Liên Hoa Quang. Chúng tùy theo tâm tư duy của chư Bồ-tát kia mà đều hiện ra như ý. Ở trong những ngọn núi đó, chư Bồ-tát kia như muốn ẩm thực, thời sẽ được đầy đủ. Các ngài chẳng có sự khổ não của luân hồi, luôn tư duy về thân họ và không suy nghĩ điều gì khác.

Thiện nam tử! Lại có một lỗ chân lông tên là Đại Dược. Trong ấy có vô số tỷ ức nayuta sơ phát tâm chư Bồ-tát. Thiện nam tử! Ở trong lỗ chân lông kia có 99.000 dãy núi. Ở trong những dãy núi này có hang kim cang báu, hang vàng báu, hang bạc báu, hang Đế Thích xanh báu, hang màu hoa sen báu, hang màu xanh biếc báu, và hang màu pha lê báu. Mỗi vua núi này có 80.000 chóp núi. Trên đó được trang nghiêm với đủ mọi thích ý như ý châu và các châu báu vi diệu.

Trong những chóp núi kia có chúng tầm hương thần thường tấu âm nhạc. Các vị sơ phát tâm Bồ-tát kia tư duy về không, vô tướng, vô ngã, nỗi khổ của sanh, nỗi khổ của già, nỗi khổ của bệnh, nỗi khổ của chết, nỗi khổ của yêu thương chia lìa, nỗi khổ của oán ghét gặp nhau, nỗi khổ của các hữu tình rơi vào Địa ngục Vô Gián và Địa ngục Dây Đen, nỗi khổ của các hữu tình bị sa vào loài ngạ quỷ. Khi tư duy như thế, họ ngồi xếp bằng với tư thế hoa sen và nhập chánh định ở trong những ngọn núi kia.

Thiện nam tử! Lại có một lỗ chân lông tên là Hội Họa Vương. Trong ấy có vô số tỷ ức nayuta bậc Duyên Giác đang phóng ra ánh sáng cháy rực. Ở trong lỗ chân lông kia có một tỷ vua núi. Những vua núi này được trang nghiêm bằng bảy báu và có muôn loại cây như ý với bạc trắng làm lá cùng vô số trăm loại châu báu dùng để trang nghiêm. Trên cây treo những mũ báu, hoa tai, y phục, xâu chuỗi anh lạc, chuông báu, và y phục tơ lụa. Lại có chuông báu làm bằng bạc trắng và chúng phát ra tiếng leng keng. Những cây như ý như thế có đầy khắp trong núi. Và có vô số bậc Duyên Giác đang trú ở nơi kia. Họ luôn thuyết giảng Khế Kinh Pháp, như là Trường Hàng, Trùng Tụng, Cô Khởi, Tỷ Dụ, Nhân Duyên, Tự Thuyết, Bổn Sanh, Bổn Sự, Vị Tằng Hữu, Phương Quảng, Luận Nghị, và Thọ Ký.

Này Trừ Cái Chướng! Khi đó các bậc Duyên Giác kia đi ra khỏi lỗ chân lông đó.

Lại có một lỗ chân lông sau cùng tên là Phan Vương, với độ rộng là 80.000 yojana. Ở trong ấy có 80.000 ngọn núi được trang nghiêm bằng muôn loại diệu bảo và như ý châu yêu thích. Trong vua núi kia có vô số cây như ý, vô số tỷ cây hương chiên đàn, và vô số tỷ cây cối to lớn. Lại có đất kim cang báu. Lại có 99 lầu các với một tỷ vàng báu, trân châu, xâu chuỗi anh lạc, và y phục được treo trên đó. Ở trong lỗ chân lông kia xuất hiện ra những việc như thế."




Khi đã thuyết giảng cho ngài Trừ Cái Chướng xong, lúc bấy giờ Phật bảo ngài Khánh Hỷ:

"Nếu có người nào không biết nghiệp báo mà ở trong tinh xá khạc nhổ cùng đại tiểu tiện và những việc tương tự, nay Ta sẽ vì ông mà nói quả báo đó:

Nếu ai khạc nhổ trên đất của Thường Trụ, thì người này sẽ sanh làm côn trùng, miệng nhỏ như cây kim, và ở trong cây sāla 12 năm.

Nếu ai đại tiểu tiện trên đất của Thường Trụ, thì người này sẽ sanh làm con giòi bọ bẩn thỉu ở trong phân hoặc nước tiểu của Đại thành Lộc Dã.

Nếu ai dùng tăm xỉa răng của Thường Trụ mà không xin phép, thì người này sẽ sanh làm cá, rùa, hoặc loài cá kình.

Nếu ai trộm cắp đèn dầu, gạo, đậu, hoặc những vật khác của Thường Trụ, thì người này sẽ đọa trong loài ngạ quỷ với đầu tóc bù xù và lông trên thân đều dựng đứng. Bụng của chúng lớn như núi, còn cổ thì nhỏ như cây kim. Thân hình chúng cháy khét và chỉ còn lại hài cốt. Đó là khổ báo mà người này phải thọ lấy.

Nếu ai khinh mạn chư Tăng, thì người này sẽ sanh trong gia đình bần cùng hạ tiện. Ở mọi nơi sanh ra, các căn đều chẳng hoàn chỉnh, gù lưng, lùn và xấu xí. Lúc xả báo thân đó, thì khi sanh ở đời sau sẽ chịu nhiều bệnh tật, thân gầy héo hon, chân tay co quắp, có máu mủ ứa ra và nhiểu khắp trên thân thể. Đó là khổ báo mà người này phải thọ lấy suốt một tỷ năm.

Nếu ai chiếm đoạt đất đai của Thường Trụ, thì người này sẽ đọa Địa ngục Gào Thét Lớn. Họ bị bắt nuốt viên sắt vào miệng và khiến cho môi, răng, hàm răng cùng cổ họng thảy đều cháy chín. Tim, gan, ruột, bụng và toàn thân cũng bị cháy sạch. Tiếp đó, có ngọn gió nghiệp thổi qua và làm cho họ chết đi sống lại, rồi các ngục tốt của Diêm Vương xua đẩy người tội đi. Do nghiệp tự chiêu cảm nên tội nhân sẽ sanh ra với cái lưỡi to lớn và có một tỷ lưỡi cày sắt cày bừa trên đó. Khi đã thọ khổ báo nhiều ngàn vạn năm như thế, họ được thoát ra địa ngục kia, rồi lại rơi vào địa ngục kế. Trong địa ngục ấy có những cái chảo khổng lồ đang bốc cháy. Ở đó, các ngục tốt của Diêm Vương lôi kéo người tội và dùng một tỷ cây kim chích trên lưỡi của họ. Do bởi nghiệp lực nên sẽ không bị chết. Tiếp đến, các ngục tốt lùa đuổi tội nhân đến hầm lửa và ném vào trong đó. Tiếp theo, chúng xua đẩy người tội đến bờ sông Nại và ném vào trong ấy. Mặc dù vậy nhưng họ cũng chẳng bị chết. Và cứ triển chuyển như thế suốt ba kiếp, người tội sẽ lần lượt đọa vào các địa ngục khác nhau. Sau đó, người này sẽ thác sanh vào trong một gia đình bần cùng hạ tiện ở Nam châu Thắng Kim và mắt lại bị mù. Đó là khổ báo mà người này phải thọ lấy. Hãy cẩn thận chớ trộm cắp đồ dùng của Thường Trụ.

Đối với chư Tỳ-kheo nào giữ giới thì nên thọ trì ba y. Nếu vào cung vua thì nên mặc y lớn thứ nhất. Nếu ở giữa đại chúng thì nên mặc y thứ hai. Nếu đang lúc làm việc, hoặc vào thôn xóm, hoặc vào thành thị, hay trong lúc đang đi, thì nên mặc y thứ ba. Chư Tỳ-kheo nên thọ trì ba y như vậy. Nếu Tỳ-kheo nào tu theo giới luật thì sẽ được công đức và có trí tuệ. Ta nói các Tỳ-kheo phải trì giới và không được trộm cắp tài vật của Thường Trụ. Giả như có người bị rơi xuống hầm lửa hoặc phải luôn uống thuốc độc, thì họ vẫn còn cách cứu chữa. Tuy nhiên, nếu ai ăn cắp đồ vật của Thường Trụ thì chẳng thể nào cứu vớt."




Lúc bấy giờ Tuệ mạng Khánh Hỷ bạch Phật rằng:

"Chúng con xin vâng lời Phật dạy, sẽ tu học và thực hành trọn đủ. Nếu vị Tỳ-kheo nào thọ trì môn Biệt Giải Thoát, thì sẽ khéo an trụ và thủ hộ giáo Pháp của Phật."

Lúc ấy, Tuệ mạng Khánh Hỷ đảnh lễ với trán chạm sát chân của Phật, đi nhiễu quanh và cáo lui. Tiếp đó, chư đại Thanh Văn, ai nấy trở về bổn xứ của mình. Tất cả trời, rồng, quỷ tiệp tật, tầm hương thần, phi thiên, nghi thần, đại mãng xà, người và phi nhân trong thế gian, sau khi nghe Phật thuyết giảng, họ đều hoan hỷ tín thọ, đảnh lễ Đức Phật rồi cáo lui.

Phật Thuyết Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương ♦ Hết quyển 4

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét